Khái quát về địa lý Mỹ
Chương 16: Vùng đất phía bắc
Chương trình Thông tin Quốc tế, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, năm 1998
Về nhiều
phương diện thì Hoa Kỳ được hình thành thông qua từ sự mở rộng đường
biên. Sự mở rộng về phía tây vẫn còn là một phần của lịch sử nước Mỹ
hiện nay, và có rất nhiều người còn sống vẫn nhớ về những ngày đầu định
cư của người dân Mỹ, về những cuộc đấu tranh anh dũng thường xuyên của
họ với mảnh đất này. Ngày nay, đường biên giới của nước Mỹ đã
không còn là vấn đề lớn nữa. Mặc dù có thể nói rằng loài người có đủ mọi
phương tiện kỹ thuật để sống ở bất cứ nơi đâu trên bề mặt trái đất,
nhưng những vùng đất của Hoa Kỳ, nơi mà người ta có thể chiếm lĩnh bằng
những nỗ lực kinh tế và sức lực khiêm tốn, đều đã được chiếm lĩnh hết. Kéo
dài về phía nam cũng như về phía bắc các bang thuộc Hồ Lớn (Great
Lakes), bao gồm cả một phần lãnh thổ cạnh đường biên giới Canada, cũng
như một phần của Alaska, Northlands (bản đồ 15) rất thưa thớt các khu
định cư. Tính chất không thuận tiện cho cuộc sống của môi trường thiên
nhiên cộng với cư dân ít ỏi đã tạo cho Northlands một đặc tính riêng
biệt. Môi trường khắc nghiệt Nếu như yêu
cầu người Mỹ mô tả Vùng đất phía Bắc thì có lẽ tính từ được sử dụng
nhiều nhất sẽ là “lạnh”. Nhiệt độ trung bình vào tháng Giêng từ khoảng
-70C dọc theo những rìa phía nam Great Lakes tới -400C tại một số vùng
thuộc Alaska. Nhiệt độ đôi khi có thể đạt tới mức - 600C. Không
chỉ nhiệt độ mùa đông rất thấp trên hầu hết những khu vực trong vùng, mà
mùa đông còn rất dài. Thời gian trung bình từ đợt sương giá cuối cùng
vào mùa xuân và lần sương giá đầu tiên của mùa thu thường là 135 ngày
tại vùng cận biên phía nam nhưng chỉ có hơn 14 ngày dọc theo những vùng
đất ven Bắc Băng Dương. Do tất cả các loại cây lương thực đều cần một
mùa sinh trưởng dài hơn 90 ngày nên chúng chỉ có thể được trồng tại một
số rất ít các vùng đất nhỏ dọc theo những giới hạn phía nam. Mùa
hè nói chung ngắn và mát mẻ, tuy nhiên đôi khi lại có những ngày ấm áp
một cách đáng ngạc nhiên. Khí hậu ôn hòa của biển chỉ rõ nét tại những
vùng ngoại vi, chủ yếu ở phía đông và phía tây. Sự khác biệt rõ
rệt về nhiệt độ theo mùa bắt nguồn từ sự thay đổi quá lớn về độ dài của
ngày và góc tới của tia sáng mặt trời. Do Trái đất quay theo lộ trình
hàng năm xung quanh mặt trời nên Cực Bắc nghiêng về phía mặt trời trong
thời gian được coi là mùa hè ở Mỹ và khuất bóng khỏi những tia sáng mặt
trời trong thời gian mùa đông. Như vậy, tất cả những khu vực thuộc phía
bắc của Vòng Bắc cực nằm trong bóng đêm ít nhất một ngày vào giữa mùa
đông và ít nhất một ngày vào giữa mùa hè không có hoàng hôn. Ngoài ra,
trong suốt mùa đông, mặt trời khi lên cũng chỉ thấp sát đường chân trời.
Thậm chí cả những khu vực miền nam của vùng này cũng chỉ nhận được sáu
tới bảy tiếng đồng hồ ánh sáng ban ngày trong mùa đông. Lượng mưa
rất khác biệt trong khắp các vùng đất thuộc Northlands. Mức cao nhất là ở
vùng đông nam xa xôi, nơi mà các chế độ bão cả mùa đông lẫn mùa hè đổ
xuống nhiều hơn lượng mưa hàng năm của bờ biển phía nam Labrador 100 cm.
Lượng mưa tập trung chủ yếu về khu vực nội địa và phía bắc. Mặc
dù lượng mưa ít ỏi, rất ít vùng đất tại Northlands mang diện mạo của một
môi trường khô hạn. Thực tế, vào mùa hè phần nhiều vùng này được bao
phủ bởi nước đọng. Một phần điều này là do mức độ bốc hơi và chuyển hóa
hơi nước rất thấp trong khí hậu lạnh ở đây. Tại các phần phía bắc của
khu vực, tình trạng nước đọng còn được hỗ trợ bởi sự tồn tại của băng
giá vĩnh viễn trên một diện rộng - một lớp kề mặt đất đóng băng vĩnh
viễn thường có độ dày 100 mét và đôi khi sâu xuống phía dưới đến 300
mét. Tại những vùng ấm áp hơn, đất đóng băng vĩnh viễn không nối tiếp
nhau liên tục, các vùng đất đóng băng xen lẫn với đất không đóng băng.
Do trong mùa hè ngắn ngủi lớp đất đóng băng tan ra với bề dầy khoảng 1
mét nên nước được giữ lại trên bề mặt của lớp đất đóng băng dưới đó, tạo
ra một mặt đất bùn lầy và ẩm ướt. Việc xây dựng trên đất đóng
băng vĩnh cửu là rất khó. Các căn nhà buộc phải dựng trên những chiếc
cột ngập sâu dưới lớp băng vĩnh cửu để có thể vững chắc, và đường sá
phải được sửa chữa hàng năm trong một thời gian rất nhanh để duy trì độ
đồng đều của móng đường. Nằm dưới mặt đất của hầu hết khu vực Alaska đều
là những lớp đất đóng băng vĩnh cửu liên tục hoặc không liên tục. Mặc
dù người ta nhận thấy khá nhiều sự khác biệt về địa hình khu vực, song
rất nhiều nơi thuộc Northlands địa hình tương đối bằng phẳng hoặc chỉ
đôi chút mấp mô. Chẳng hạn mặt phía bắc của Alaska, là một vùng đồng
bằng ven biển rộng lớn và bằng phẳng. Chất đất của các vùng thuộc
Northlands cũng rất khác biệt nhau nhưng thường là đất chua phèn, khô
cằn và chất lượng canh tác thấp. Chất đất tại khu vực phía nam của
Northlands hầu như là đất chứa ôxít nhôm thích hợp cho môi trường rừng
cây lá kim. Về phía bắc, chất đất của vùng lãnh nguyên ngập nước và đóng
băng chiếm phần lớn. Đất màu mỡ chỉ giới hạn ở một số thung lũng sông
cũ và những hồ nước đã bị lấp đầy bởi những trầm tích và cỏ cây mục nát. Hầu
hết khu vực Northlands có thể được chia làm hai vùng thực vật phân
biệt. Trải dài suốt vòng cung phía nam của Northlands là rừng tùng bách,
loại rừng được gọi là rừng boreal hoặc rừng taiga. Bao phủ hàng trăm
ngàn kilômét vuông, những loài cây như là linh sam, vân sam, thông và
liễu phủ lên bức tranh phong cảnh một tấm chăn sẫm màu, gần như là đen
khi nhìn từ trên không xuống. Mọc rất chậm và không bao giờ thực sự cao,
những loài cây này giảm dần số lượng và chiều cao theo hướng từ nam đến
bắc xuyên qua rừng taiga. Xung quanh Great Lakes, sự pha trộn giữa
thông và các loài cây gỗ cứng chiếm vị thế chủ đạo. Ngang qua phía
nam Vịnh Hudson, sau đó nhằm về phía tây bắc tới sông Mackenzie và
xuyên qua rìa phía bắc Alaska là tuyến cây thân gỗ xác định vùng chuyển
tiếp giữa rừng taiga và vùng đất lạnh tại Northlands. Về phía bắc tuyến
cây này, điều kiện khí hậu quá khắc nghiệt đối với những loài thực vật
thân gỗ. Lên phía trên là vùng đất lạnh, vùng đất của địa y, cỏ, rêu và
những loài cây bụi. Bao phủ khoảng 4,8 triệu km2 là một lớp băng
lớn của Bắc cực (chiều dầy từ 3 đến 6 mét) và xù xì, hầu như không mặn,
nổi trên bề mặt của đại dương. Tảng băng này chứa số nước ngọt cũng bằng
với số nước ngọt tại tất cả các hồ trên thế giới. Vào mùa đông tảng
băng này trải rộng về phía nam và phủ kín phía bắc Alaska. Vào mùa hè,
băng tan ra một cách nhanh chóng trả lại mặt đất cho khu vực này. Băng
giá đã hạn chế hoạt động vận tải trên biển tại Bắc cực trong một khoảng
thời gian ngắn ngủi và thường là sôi động vào mỗi mùa hè. Một đợt trở
lại sớm của băng giá đôi khi có thể làm những con tầu (kể cả những con
cá voi di cư tới Bắc Băng Dương trong suốt mùa hè) bị mắc kẹt và không
thể bơi vào mặt nước mở để trở lại phía nam. Băng giá cũng hạn chế ảnh
hưởng điều hòa của Bắc Băng Dương đối với khí hậu Northlands. Sự
lập nghiệp của con người Gần như tất cả các vùng thuộc
Northlands đều có dân cư phân bố thưa thớt, mật độ cao nhất thường thấy ở
vùng ranh giới phía nam. Những người Mỹ bản địa, người Metis và Inuit
(Eskimo) có số lượng áp đảo trên nhiều khu vực của miền Bắc Hoa Kỳ.
Những người Eskimo là cư dân chiếm ưu thế trên hầu hết vùng Bắc cực.
Người Mỹ bản địa sống chủ yếu trong khu vực rừng taiga. Và những người
Metis chính là kết quả của những cuộc hôn phối giữa những phụ nữ người
Mỹ bản địa và người da trắng trong thời kỳ định cư của người châu Âu để
kinh doanh lông thú tại rừng taiga. Sự có mặt của những người châu
Âu tại Northlands đã trở thành sự kết thúc về căn bản nền văn hóa
truyền thống của những người Eskimo và người Mỹ bản địa. Những nhà buôn
lông thú đã sớm mua rất nhiều những bộ lông thú của người Mỹ bản địa
trong rừng taiga và kết quả là hàng hóa châu Âu nhanh chóng xâm nhập vào
nền kinh tế của người Mỹ bản địa. ở những nơi mà săn bắn và đánh bắt cá
còn tiếp tục thì xuồng máy, súng trường và động cơ trượt tuyết thường
thay thế cho thuyền độc mộc, cung tên và xe chó kéo. Nhưng hầu hết người
Mỹ bản địa cũng như người Inuit cũng không còn sống nhờ vào việc săn
bắn và đánh bắt cá nữa. Họ đã di chuyển một số lớn vào những thành phố
và nhiều địa điểm thành thị của Northlands ngày nay có số dân bản xứ rất
đông đúc. Northlands tỏ ra ít hấp dẫn đối với phần lớn những
người châu Âu đến Mỹ. ở những nơi định cư tại Northlands, tập trung ở
đây là những người khai thác hoặc quân đội. Những nhà hàng hải, người
bẫy thú và những nhà buôn người Pháp đẩy những chiếc thuyền của họ vượt
xa khỏi những khu định cư nông nghiệp dọc theo bờ sông St. Lawrence rất
sớm vào giữa thế kỷ thứ 17 và vì vậy mở rộng sự kiểm soát chính trị của
người Pháp xuyên suốt khu vực Great Lakes. Công ty Hudson Bay, một công
ty kinh doanh lông thú rất sớm của người Anh, đã được thành lập ngay
trên những dải đất cạnh Vịnh Hudson tại Canada, sau đó mở rộng về phía
tây và phía nam, và chính vì vậy mà hạn chế sự bành trướng hơn nữa của
người Pháp về phía tây. Vào giữa thế kỷ thứ 18, Công ty Hudson Bay được
chính phủ Anh ban cho độc quyền kinh doanh trên khu vực này đã nắm quyền
kiểm soát toàn bộ vùng rừng boreal kéo dài từ Vịnh Hudson lên phía tây
đến Rocky Mountains với sự mở rộng ảnh hưởng hơn nữa đối với Bắc cực. Đế
chế rộng lớn của những người khai thác này chỉ kéo theo nó một số ít
những khu định cư nhỏ và phân bổ rải rác. Những người đi biển và
Công ty Hudson Bay dựa chủ yếu vào những con suối và hồ trong khu vực để
vận tải hàng hoá, và họ thiết lập những pháo đài nhỏ tại các điểm kiểm
soát dọc theo các tuyến đường thuỷ. Tại những địa điểm mà các con suối
trọng yếu hội nhập với các hồ, nơi những con suối kết thúc và việc vận
tải đường bộ bắt đầu, hoặc là nơi gặp những con thác hoặc ghềnh, hàng
hóa được dỡ khỏi những tàu thuyền và chuyển sang các tàu khác; những
điểm này cho phép có được sự kiểm soát hữu hiệu đối với hệ thống giao
thông đường thuỷ. Vị trí của những pháo đài trước đây của người Pháp
ngày nay đã trở thành những trung tâm đô thị quan trọng, bao gồm
Chicago, Detroit và Pittsburgh. Các khu rừng boreal thuộc nửa phía
nam của Northlands bao gồm một vùng lớn nhất các cánh rừng chưa được
khai thác còn lại ở Bắc Mỹ. Cho tới gần đây, các ngành công nghiệp giấy,
bột giấy và đốn gỗ mới chỉ mon men đến bên rìa cánh rừng rộng lớn này.
Khu vực phía trên Great Lakes đã bị đốn với quy mô lớn trong suốt những
năm cuối của thế kỷ thứ 19 và đầu thế kỷ thứ 20. Do việc tái trồng rừng
không được thực hiện bao nhiêu vào thời bấy giờ và do khí hậu lạnh mà
các cánh rừng boreal mọc lại rất chậm, phần nhiều những cánh rừng này
cho đến tận ngày nay mới hồi phục được vẻ ngoài vốn có của mình. Phần
của khu vực Northlands phía trên Great Lakes là nguồn quặng sắt hàng
đầu của nước Mỹ, cũng là nguồn quặng đồng đáng kể. Khu vực dầu lửa North
Slope thuộc Alaska gần đây đã cung cấp một nguồn bổ sung lớn cho ngành
cung nhiên liệu của nước Mỹ, chiếm 25% tổng sản lượng khai thác dầu
trong toàn quốc. Cũng như đối với ngành đốn gỗ, những vùng ngoại
vi có thể tiếp cận của Northlands trở thành vùng khai thác mỏ quan trọng
hàng đầu khu vực. Dãy Mesabi thuộc phía bắc Minnesota, một khu vực với
những ngọn đồi nhấp nhô trải dài, cùng với những vùng lân cận tại
Minnesota, Wisconsin, và Michigan đã tạo thành một nguồn quặng sắt chính
vào cuối thế kỷ thứ 19 của nước Mỹ. Hàng tỷ tấn quặng có chất lượng cao
đã vận chuyển bằng đường sắt tới các hải cảng thuộc Hồ Superior và được
đưa lên những chuyến tầu thủy đặc biệt lớn để đưa tới những hải cảng
thuộc Đông Bắc Ohio, ở đây chúng lại được chuyển sang tầu hỏa để tới
những nhà máy chế biến sắt thép tại khu vực Pittsburgh - Youngstown.
Ngày nay, hầu hết số quặng này được biến thành những thiết bị hợp kim
sắt thép tại phía nam của Hồ Michigan. Những cửa đập tại Sault Sainte
Maria nối liền Hồ Superior và phần còn lại của Great Lakes trở thành nơi
đông đúc nhất trên thế giới, phần lớn do kết quả của việc vận chuyển
khoáng chất này. Phần lớn các quặng sắt có chất lượng cao đều xuất
phát từ khu khai thác mỏ của Hồ Superior. Người ta cũng đã chú ý tới
một loại quặng có chất lượng thấp hơn được gọi là taconite, cũng được
tìm thấy với khối lượng lớn tại khu khai mỏ nêu trên. Hàm lượng sắt của
quặng taconite thấp, chỉ khoảng 30% so với tỷ lệ có lẽ gấp đôi của những
loại quặng chất lượng hơn, chính vì vậy mà việc vận chuyển loại quặng
này tới Great Lakes để xử lý bị coi là quá đắt đỏ. Vì thế, quặng
taconite được nghiền thành một thứ bột mịn, phần lớn đá bị loại bỏ và
những khoáng chất thu được được ép thành những miếng nhỏ với hàm lượng
sắt cao hơn rất nhiều. Việc này khiến cho chi phí vận chuyển giảm đi
đáng kể. Chi phí quá cao của việc vận chuyển những loại quặng chất
lượng thấp là yếu tố chủ yếu trong việc lựa chọn đặt các cơ sở luyện
kim gần với nguồn cung cấp hơn là gần với thị trường. Ví dụ như đồng,
với có hàm lượng hiếm khi lên tới 5% mà thường là ít hơn 1% trong quặng
đồng, gần như là đều được tinh lọc ngay tại mỏ. Hoạt động luyện và tinh
chế khoáng chất là hình thức chủ yếu của hoạt động chế tạo tại
Northlands, và những ống khói lớn của các lò luyện kim chính là dấu hiệu
chủ yếu trên bầu trời của những thành phố lớn hơn trong khu vực. Hoa
Kỳ đã chuyển hướng sang việc nhanh chóng phát triển các mỏ dầu lửa tại
North Slope thuộc Alaska. Một số nhà sản xuất dầu lửa đã chi trả hơn 1
tỷ đô-la Mỹ chỉ để được quyền tìm kiếm dầu lửa tại khu vực này. Vận
chuyển dầu thô là một vấn đề chủ yếu liên quan đến việc mở cửa các mỏ ở
North Slope. Một đường ống trị giá 8 tỷ đô-la Mỹ xuyên qua trung tâm
Alaska tới cảng Valdez trên Thái Bình Dương cuối cùng đã được xây dựng
và khai trương vào năm 1977. Mật độ dân cư thưa thớt và đặc biệt
là sự thiếu vắng những thành phố của Northlands đồng nghĩa với việc cho
dù các tuyến vận tải có được xây dựng với chi phí thấp thì chúng cũng
chỉ được sử dụng rất ít. Chỉ có đường cao tốc Alaska và một số nhánh của
nó toả khắp vùng cận biên phía tây của khu vực. Tuy nhiên, tại
phần lớn khu vực này các máy bay hạng nhẹ và các phi công là đường dây
liên kết vận chuyển duy nhất phổ biến. Con số xấp xỉ hai chục phương
tiện vận tải hoạt động tạo thành một mật độ khá dày những tuyến vận
chuyển theo thời biểu ở vùng đất phía bắc này. Mặc dù tổng số dân
cư trong vùng không lớn song đa số người dân ở Northlands sống tại các
làng, thị trấn và các thành phố. Ngành nông nghiệp, sự hỗ trợ chủ yếu
cho việc định cư rải rác ở những nơi khác, chỉ quan trọng ở tầm địa
phương. Gần như tất cả những thành phố lớn đều bị chi phối bởi một hoạt
động kinh tế chủ yếu duy nhất và đều tập trung về phía nam, ví dụ, như
Duluth, Minnesota, là một trung tâm vận tải. Hầu hết những thị trấn nhỏ
hơn nằm trong khu vực rừng boreal đều giống nhau ở chỗ chỉ có một chức
năng. Xa về phía bắc, sự phát triển của cộng đồng người châu Âu đã
tạo thành một số ít khu định cư vĩnh viễn. Nhiều người trong khu vực
này làm việc, với tư cách này hoặc tư cách khác, cho Chính phủ Hoa Kỳ
hoặc trong ngành khai khoáng. Những cộng đồng phương bắc xa xôi bị cách
ly một cách tuyệt đối, thường dân số là nam giới chiếm số đông và lực
lượng lao động thường giành những khoảng thời gian nhiều tuần để về thăm
gia đình hoặc là để vui chơi giải trí. Cũng như các cộng đồng tại tất
cả những nơi mà chủ yếu tập trung vào khai thác khoáng sản, dân cư ở đây
có tuổi thọ thấp do rơi vào tình trạng kiệt sức.
Nội dung
-
- Chương 1: Các chủ đề và khu vực
- Chương 2: Môi trường tự nhiên
- Chương 3: Những nền tảng hoạt động của con người
- Chương 4: Khu siêu đô thị
- Chương 5: Vùng trọng điểm chế tạo
- Chương 6: Miền đông bị quên lãng
- Chương 7: Appalachia và Ozark
- Chương 8: Vùng cực nam
- Chương 9: Vùng đất ven biển phía nam
- Chương 10: Vùng trọng điểm nông nghiệp
- Chương 11: Vùng đồng bằng và thảo nguyên lớn
- Chương 12: Vùng đất trống trong nội địa
- Chương 13: Vùng biên giới Tây Nam
- Chương 14: California
- Chương 15: Vùng bờ biển Bắc Thái Bình Dương
- Chương 16: Vùng đất phía bắc
- Chương 17: Hawaii