Khái quát về địa lý Mỹ
Chương 15: Vùng bờ biển Bắc Thái Bình Dương
Chương trình Thông tin Quốc tế, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, năm 1998
Những
dòng suối lạnh và trong vắt từ núi chảy ra đổ xuống những triền rải đá,
tạo nên một đường viền lởm chởm chưa từng có dấu chân người, với những
vách đá dựng đứng có mây mù che phủ, nhô lên từ trong sóng vỗ ầm ầm. Từ
xa hiện lên những ngọn núi tuyết phủ, sừng sững trang nghiêm. Những cây
lá kim thường xuyên xanh cao vút phủ lên khoảng đất giữa một tấm áo
choàng xanh. Các thành phố, tại nơi mà chúng tồn tại, gây một ấn tượng
là chúng rất mới mẻ. Vùng bờ biển Bắc Thái Bình Dương (North Pacific
Coast) của nước Mỹ, hay tên thường gọi hơn là Vùng Tây Bắc Thái Bình
Dương (Pacific Northwest) (bản đồ 14) là vùng ven biển trải dài từ phía
bắc California xuyên qua ven biển Canada tới miền Nam Alaska. Một
yếu tố quan trọng trong đặc trưng khu vực của vùng này là sự biệt lập
tương đối của North Pacific Coast so với phần còn lại của nước Mỹ. Chưa
đầy 3% dân số Mỹ sinh sống ở nơi đây. Những vùng đông dân của khu vực
này được tách ra khỏi những trung tâm dân số lớn khác bởi khoảng cách
khá lớn chứa đựng vùng địa hình khô cằn hoặc núi non. Cư dân trong khu
vực thường xem sự biệt lập này như một yếu tố tích cực, một tấm đệm về
địa lý trước phần còn lại của thế giới. Tuy nhiên, về mặt kinh tế thì đó
lại là một trở ngại. Chi phí giao thông cao đã làm tăng mạnh giá cả của
những sản phẩm của Pacific Northwest trên những thị trường phía đông xa
xôi và làm cho nhiều nhà sản xuất không muốn đặt cơ sở tại khu vực này. Môi
trường tự nhiên North Pacific Coast được xác định chủ
yếu trên cơ sở môi trường tự nhiên của nó. Nói một cách rất đơn giản, nó
là một khu vực phụ thuộc rất mạnh vào ảnh hưởng của biển và địa hình gồ
ghề. Lượng mưa rất cao và thực vật thích hợp với độ ẩm cao xuất hiện ở
gần bờ biển, nhưng cũng khá đa dạng trong một khoảng cách ngắn do ảnh
hưởng của những dãy núi bao quanh đối với khí hậu của khu vực. Pacific
Northwest là nơi có lượng mưa trung bình hàng năm cao nhất Hoa Kỳ. Mức
trung bình trên 190 cm là phổ biến, và những mức trung bình cao gấp đôi
lượng mưa trên các sườn tây của các núi Olympic vùng tây bắc Washington.
Vào mùa đông gần như luôn luôn có mây che phủ. Phía bắc Thái Bình
Dương là một vùng sản sinh ra những khối không khí chứa đựng vô số bọt
nước li ti. Khi những khối không khí này di chuyển, chúng bị những luồng
gió tràn ngập trên bờ biển Thái Bình Dương của nước Mỹ đẩy dạt xuống
phía nam và phía đông. Một chế độ áp cao hình thành ở ngoài khơi
California vào mùa hè và Tây bắc Mehico vào mùa đông đã ngăn cản nhiều
trong số những luồng không khí biển này trôi dạt sâu hơn về phía nam và
đảm bảo phần lớn hơi nước tụ lại North Pacific Coast. Thông thường,
lượng mưa vào mùa đông ở bất kỳ nơi nào cũng cao hơn lượng mưa vào mùa
hè, nhưng tính khác biệt về mùa lại rõ rệt hơn ở dải đất phía nam khu
vực này. Trong những tháng mùa hè là tháng 7 và tháng 8, ở vùng bờ biển
phía nam Oregon và phía bắc California lượng mưa không đến 10 cm. Vào
khoảng thời gian từ tháng 12 đến tháng 2 ở khu vực này lại chỉ nhận được
1/10 lượng mưa nói trên. Mặc dù nhìn chung khu vực này có lượng
mưa cao nhưng phần lớn các khu vực lại khô hạn. Những vùng giáp ranh
Puget Sound thuộc Washington hàng năm chỉ nhận được lượng mưa khoảng 60
cm. ở đây hiếm khi có mưa rào lớn mà điển hình là mưa nhẹ, mưa bay,
những trận mưa thường giống như sương mù nặng hạt. Chính vì vậy mà hiện
tượng xói mòn thường xảy ra khi có các trận mưa to ít có ở khu vực này
và cây cối có thể tận dụng độ ẩm một cách tối đa. Sự có mặt của
những dãy núi trong khu vực này chính là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến
hiện tượng lượng mưa lớn dọc theo bờ biển và sự khác biệt đáng kể về khí
hậu cùng tồn tại trên những vùng đất rất gần nhau. Khi di chuyển về
hướng đông và hướng nam, khối không khí từ Thái Bình Dương đập vào những
dãy núi nằm ở North Pacific Coast và buộc phải vượt lên cao. Khi dâng
lên cao, không khí trở nên lạnh hơn và khả năng vận chuyển hơi nước đi
xa giảm xuống, dẫn đến mưa. Dọc theo vành đai kéo dài từ phía nam -
trung tâm Oregon tới tây nam British Columbia của Canada, phía sau
Coast Range là vùng lòng máng đất thấp bao gồm vùng Thung lũng
Willamette ở Oregon và vùng đất thấp Puget Sound ở Washington. Khi hạ
xuống vùng đất thấp, khối không khí đi về phía đông này nóng lên, khả
năng vận chuyển hơi nước của khối không khí tăng thêm. Do lượng hơi nước
mới cũng không được bổ sung thêm vào khối không khí nên hiện tượng ít
mưa xảy ra. Về phía đông của vùng đất thấp là dãy núi chạy theo
hướng bắc-nam có tên Cascade. Núi Rainier thuộc Washington có độ cao
4.390 m so với mặt biển và nhiều đỉnh núi khác có độ cao từ 2.750 m đến
3.650 m. Lượng mưa mùa đông ở đây dưới dạng tuyết rơi khiến cho vùng này
trở thành nơi chiếm một tỷ lệ tuyết rơi cao nhất trong nước. Cuối
cùng, khi di chuyển về phía đông của khu vực này, vượt qua Cascade
thuộc nội hạt Washington, khối không khí lại một lần nữa di chuyển xuống
thấp và nóng lên. Độ ẩm trong không khí còn lại rất ít, vì vậy hầu hết
các vùng phía đông của Washington có lượng mưa trung bình hàng năm không
đến 30 cm. Phía nam và bắc của hệ thống núi - thung lũng - núi
này là nơi gặp gỡ của các dãy núi và không còn các thung lũng tách biệt
nữa. Lượng mưa lớn nhất được tập trung vào một vòng cung duy nhất nằm
dọc theo bờ bắc, bao gồm cả Vùng cán xoong (Panhandle) của Alaska, bao
phủ bởi hơi nước và mây mù. Lượng mưa trung bình giảm đi đáng kể dọc
theo bờ biển phía bắc Alaska và phía tây của Panhandle, hầu hết bờ biển
phía nam của vùng trung tâm Alaska có lượng mưa trung bình hàng năm từ
100 cm đến 200 cm. Ngoài việc đem đến lượng mưa cao hàng năm, sự
có mặt của biển ở khu vực này đã tạo ra một cơ chế điều hòa nhiệt độ.
Mùa hè nơi đây rất mát mẻ trong khi mùa đông lại ấm áp lạ thường, mặc dù
độ ẩm cao thường đồng nghĩa là không khí ẩm và lạnh, gây cảm giác khó
chịu nếu căn cứ vào nhiệt độ thích hợp trên nhiệt kế. Sự di
chuyển theo mùa của các khối không khí đã tạo ra những chu kỳ đều đặn
của các đợt gió mạnh dọc theo dải đất bờ biển. Hiện tượng những tháng
mùa đông có gió mạnh hơn 125 km/h trong mùa mưa bão không phải là chuyện
hiếm. Mặc dù những dãy núi dọc theo bờ biển tạo ra một sự che chắn và
lượng gió vào mùa hè thường ít hơn nhưng đôi khi các đợt gió mạnh vẫn có
thể thổi tới tận các vùng phía đông của khu vực ngay trong mùa hè. Khi
hiện tượng này xảy ra, nguy cơ hỏa hoạn càng tăng lên. Tại một địa
điểm thuộc Pacific Northwest, chúng ta khó có thể nhìn thấy được toàn
bộ khung cảnh của các đỉnh núi lân cận ngay cả khi trời quang mây tạnh.
Ngọn núi McKinley ở phía bắc của vùng này có độ cao 6.200 m và là ngọn
núi cao nhất ở Bắc Mỹ. Những ngọn núi thuộc Coast Range của Oregon liên
tiếp nhau, có độ cao so với mặt biển khoảng 1.200 m. Đến Washington, các
ngọn núi không còn nối liền nhau mà bị nhiều con sông chia cắt, nổi bật
là sông Columbia và sông Chehalis cắt ngang dãy núi. Độ cao của Coast
Range ven biển thuộc Washington hiếm khi cao tới 300 m. Dãy núi
Klamath nằm về phía bắc của California và phía nam của Oregon tạo ra một
địa hình lộn xộn trong đó hầu như không có một mô hình nào rõ rệt. Đó
là một vùng đất hoang vu, mấp mô và trống trải. Những vùng đất
thấp của Oregon là một bộ phận của cấu trúc lòng máng được hình thành
khi vùng đất này bị lún xuống đồng thời với khi vùng Cascade trồi lên ở
phía đông. Lòng máng này hướng về phía bắc dưới dạng một eo biển ngăn
cách đảo Vancouver thuộc Canada với phần còn lại của British Columbia,
sau đó vượt qua quần đảo nằm xung quanh Panhandle của Alaska và cách
phía bắc Inside Passage cùng Juneau cùng một khoảng cách như nhau. Vào
sâu trong đất liền, dãy Cascade kéo dài từ phía bắc dãy Klamath đến
phía nam của British Columbia. Phía nam của dãy núi này đột nhiên trở
thành một vùng đất cao, bị xói mòn với một dãy những ngọn núi lửa trên
đỉnh. Nằm giữa ngọn núi Lassen thuộc California (một trong số ít các
ngọn núi lửa đã hoạt động rất mạnh trong lịch sử Hoa Kỳ) và núi Hood
thuộc Oregon, những đỉnh núi đặc biệt hùng vĩ nổi lên trong khung cảnh
của vùng cao nguyên vây quanh. Vùng bắc Cascade gồ ghề hơn và từ lâu đã
trở thành một rào chắn khó khăn đối với việc di chuyển từ vùng đất thấp
đông đúc dân cư Puget Sound tới phía đông. Tại đây, những ngọn núi lửa
đã tắt, nổi bật nhất là ngọn Rainier, có độ cao lớn nhất và là những
đỉnh núi dễ nhận thấy nhất. Vượt qua Panhandle của Alaska và dãy
Saint Elias đồ thị bao phủ băng tuyết, những ngọn núi bị chia tách tại
phía nam Alaska. Coast Range, nổi bật là các ngọn Chugach và Kenai, giảm
dần độ cao theo hướng từ đông sang tây. Các ngọn núi phía trong, Dãy
Alaska, cao hơn và liên tục hơn nhiều. Một vùng đất thấp rộng lớn ngay
đầu Vịnh Cook nằm ở phía nam của một khoảng trống xuyên qua Dãy Alaska
và chính ở nơi này, Anchorage, thành phố lớn nhất tại vùng Alaska (với
dân số ước tính 226.000 người vào năm 1993) nằm ngay cạnh hải cảng với
hệ thống giao thông dễ dàng với nội hạt. Juneau, thủ phủ của
Alaska, nằm trên một dải đất thấp ven biển ở Panhandle, phương tiện giao
thông duy nhất nối nơi đây với các vùng khác của bang là đường biển và
hàng không. Từ thị trấn này, người ta chỉ có thể lái xe đi xa nhất là 15
km. Vị trí địa lý của thủ phủ này là hợp lý khi tài nguyên của Alaska
là rừng rậm và ngành đánh bắt cá hồi của Panhandle cũng như khả năng
tiếp cận các bãi vàng Yukon xuyên qua Skagway vẫn được người ta nghĩ
đến. Do nền kinh tế của bang đã thay đổi và những nguồn lực khác trở nên
quan trọng hơn, Panhandle trở nên suy yếu. Fairbanks (dân số ước tính
32.300 vào năm 1989), ở tại trung tâm của Alaska, và Anchorage, thành
phố tiếp cận với các vùng phía nam của bang, đã vượt qua Juneau về mức
tăng trưởng dân số, thủ phủ của bang có dân số vẫn thấp hơn 29.000 người
vào năm 1989. Xét về mặt hệ thực vật, ở khu vực này có những cây
sồi đỏ lộng lẫy ở trên dãy núi Klamath, những cây linh sam Douglas, cây
độc cần và tuyết tùng đỏ tại Washington và Oregon, những cây vân sam
Sitka trên bán đảo Alaska. Nơi đây không chỉ có rừng rậm mà còn là vùng
đất đẹp tuyệt vời của những loài cây cao mọc thẳng, vươn lên trời. Ngoại
trừ những vùng đất thấp khô hạn hơn, những nơi như là Thung lũng
Willamette với hệ thực vật thông thường là cỏ, vùng đất phía nam Cascade
với sự pha trộn của các đám cỏ và các loài cây bụi lúp xúp; ngoại trừ
những vùng đất lạnh lẽo phía trên ranh giới những hàng cây, tất cả vùng
Pacific Northwest đều được bao phủ hay nói chính xác hơn đã từng được
bao phủ bởi rừng rậm. Sự tăng trưởng của cây cối được kích thích bởi độ
ẩm dồi dào và khí hậu mùa đông rất ôn hoà. Các sản phẩm của rừng rậm
chính là chỗ dựa kinh tế lâu dài của vùng này. Thậm chí cho tới ngày
nay, mặc dù vùng đông nam nước Mỹ đã sản xuất ra được nhiều gỗ hơn cho
công nghệ làm bột giấy và các sản phẩm giấy khác thì vẫn không có khu
vực nào cung cấp được nhiều gỗ như North Pacific Coast. Mô
hình cư trú của dân cư Không có một vùng bờ biển nào,
không kể các vùng cực của trái đất lại được người châu Âu khám phá muộn
màng hơn North Pacific Coast. Vitus Bering đã cho rằng bờ biển Alaska
phải thuộc về nước Nga từ năm 1740, nhưng điều này đã không được công
nhận cho tới khi thuyền trưởng James Cook đã đi dọc theo bờ biển này từ
Oregon tới đông nam Alaska. Vào thời gian các nhà thám hiểm Meriwether
Lewis và William Clark thực hiện hành trình của mình xuyên qua Cascade
tới cửa sông Columbia vào năm 1805, Philadelphia và thành phố New York,
mỗi thành phố với dân số khoảng 75.000 người ganh đua một cách quyết
liệt để chiếm danh hiệu thành phố lớn nhất quốc gia. Vào giữa những năm
1840, khi những người sáng lập ra nước Mỹ bắt đầu đi trên con đường mòn
Oregon đến Thung lũng Willamette, dân số Washington nhanh chóng đạt đến
con số 500.000 người. Dân số trước khi người châu Âu thâm nhập
trong khu vực này khá lớn. Môi trường khí hậu ôn hòa cung cấp một nguồn
thực phẩm dồi dào trong cả năm. Hươu, các loại hạt, rễ cây, các loài
giáp xác và đặc biệt là cá hồi là những kho tàng thực phẩm tự nhiên
dường như vô hạn. Người Mỹ bản địa thích ứng với môi trường này bằng nền
kinh tế săn bắt và hái lượm mà không hề biết đến việc trồng trọt những
loài cây lương thực. Sống tập trung dọc theo bờ biển, họ chia thành
nhiều cộng đồng dân tộc thiểu số, mỗi cộng đồng chiếm lĩnh một thung
lũng ven biển nhỏ và riêng biệt. Những thổ dân này xây dựng những ngôi
nhà lớn, rất gây ấn tượng bằng thân cây tuyết tùng đỏ và đi biển bằng
những chiếc thuyền độc mộc cũng làm từ thứ gỗ đó. Dọc theo hầu
hết bờ biển này, người Mỹ bản địa dường như là biến mất khi những người
châu Âu đến. Do sự cách biệt quá lớn của những cộng đồng người Anh-điêng
khiến cho họ không thể thực hiện được những cuộc kháng cự một cách có
tổ chức, từng bộ lạc nhỏ đầu hàng một cách lặng lẽ, gây rất ít ảnh hưởng
đến sự định cư của người châu Âu. Ngày nay, còn lại rất ít người Mỹ bản
địa ở phía nam. Xa hơn về phía bắc, người Mỹ bản địa vẫn còn lại một
cộng đồng đáng kể ở Panhandle của Alaska. Người Nga là những người
châu Âu đầu tiên thiết lập cuộc sống định cư lâu dài dọc theo bờ biển
này. Họ đến nơi đây vào cuối thế kỷ thứ 18, bị thôi thúc bởi động cơ tìm
kiếm sự giầu có một cách dễ dàng. Những của cải mà họ định dựa vào đó
để làm giầu chính là lông thú. Những người Nga đã lập ra một loạt các
phái đoàn và trạm giao dịch tập trung ở đông nam Alaska nhưng cũng mở ra
cả về phần Nam và Bắc California. Những tiền đồn này không bao giờ có
đủ lương thực và chi phí để duy trì những trạm giao dịch ở rải rác, cách
biệt nhau, thường vượt quá mức thu nhập từ bán lông thú. Sau một loạt
những toan tính của những người Nga trong việc bán thuộc địa này cho
nước Mỹ, cái giá 7,2 triệu đô-la Mỹ cuối cùng đã được thỏa thuận vào năm
1867. Công ty Bay Hudson chuyển hoạt động kinh doanh lông thú của
mình về vùng lòng chảo sông Columbia vào đầu thế kỷ thứ 19. Đây là một
sự kiện gây ảnh hưởng lớn trong khu vực Pacific Northwest tính cho tới
thời điểm những năm 1830, khi những nhà truyền giáo người Mỹ và những
người dân Mỹ di cư bắt đầu cuộc hành trình dài của họ từ Missouri đến
qua con đường mòn Oregon. Hầu hết những người dân định cư Mỹ mới chuyển
đến Thung lũng Willamette, nhưng họ nhanh chóng trở nên đông đúc hơn dân
cư gốc Anh của toàn bộ vùng Tây Bắc. Đường xe lửa là một sự kiện
mang tầm quan trọng đặc biệt đối với sự phát triển thực sự của Oregon và
Washington. Vào năm 1883, Tuyến đường sắt bắc Thái Bình Dương tới
Seattle hoàn tất và một thập niên tiếp sau đó là tuyến Great Northern.
Sự kiện này đã chấm dứt sự lệ thuộc hoàn toàn của khu vực này vào vận
tải đường biển đi qua cực nam của Nam Mỹ tới phía đông Hoa Kỳ và những
thị trường châu Âu. Ngày nay, vùng đất xa xôi này, cũng giống như
hầu hết các khu vực khác của nước Mỹ, đều có một số dân cư đô thị. Cả
Seattle, Washington, và Portland, Oregon, đều có dân số siêu đô thị
khoảng hơn 1 triệu người. Seattle là thành phố lớn nhất dọc theo
North Pacific Coast kể từ thời kỳ phồn thịnh cuối thế kỷ thứ 19. Được
thiết lập nên như là một trung tâm khai thác gỗ, Seattle bắt đầu đạt
được vị thế thống trị trong khu vực khi thành phố được nối liền với
tuyến đường sắt xuyên lục địa. Thành phố này là nơi ra đời hãng máy bay
Boeing kể từ năm 1920 và nó được gọi là thành phố của những công ty lớn
nhất trên thế giới. 3500 nhà sản xuất khác của thành phố hoạt động trong
lĩnh vực sản xuất các nguyên liệu xi măng, đất sét, cung ứng cá, bột
mỳ, các sản phẩm kim loại, hàng dệt may và thực phẩm. Trung tâm đô
thị của Seattle co cụm vào một dải đất hẹp tiếp giáp với Puget Sound về
phía tây và Hồ Washington về phía đông. Thành phố có một vị thế đẹp với
phong cảnh của các ngọn núi và mặt nước đã đem lại cho các cư dân của
mình rất nhiều đồi xen kẽ một cách ngoạn mục với những đường phố đầy cây
xanh. Portland là một thành phố cũ kỹ nếu xét theo những chuẩn
mực của khu vực, nhưng lại là mới theo các chuẩn mực khác. Nền kinh tế
của thành phố đa dạng hơn Seattle và mối quan hệ của nó với nội địa của
vùng cũng gần gũi hơn bởi lộ trình của vùng đất thấp về phía đông đã
được thung lũng sông Columbia tạo ra. Portland là một điểm trung chuyển
vận tải đường thủy lớn đối với các loại hàng hóa như ngũ cốc từ phía tây
Washington đến, sản phẩm gỗ và chế biến thực phẩm là những hoạt động
chủ yếu của nền kinh tế sản xuất địa phương. Portland nằm cách bờ biển
khoảng 160 km nhưng lại cạnh tranh với Seattle trong vai trò là một cảng
biển bởi vị thế sông Columbia thấp hơn rất tiện lợi cho giao thông
đường thuỷ. Nền kinh tế trong khu vực Trên
nhiều phương diện, cơ cấu kinh tế của North Pacific Coast bị chi phối
bởi ngành sản xuất những sản phẩm vật liệu chưa qua chế biến và bởi sự
cách ly của khu vực đối với những thị trường lớn trên đất nước. Khu vực
này luôn chứa đựng một số hàng hóa có nhu cầu cao, nổi bật là gỗ và thực
phẩm. Tuy nhiên, chi phí vận chuyển lại giảm bớt khả năng của các nhà
sản xuất trong việc đưa sản phẩm của họ ra thị trường với mức giá phải
chăng. Kết quả là, các thị trường quay sang những nguồn cung cấp khác
gần hơn và rẻ tiền hơn, vì vậy hầu hết các nông sản của North Pacific
Coast đều được sản xuất phục vụ thị trường địa phương chứ không xuất
khẩu. Thung lũng Willamette rộng lớn tại Oregon rõ ràng là vùng
nông nghiệp lớn nhất kề cận bờ biển của khu vực này. Vùng đất này đã
được trồng cấy trong hơn một thế kỷ với những nông trại được xây dựng
đẹp và phồn thịnh. Rất nhiều đất nông nghiệp được sử dụng để trồng thức
ăn cho gia súc và nhiều người nông dân vẫn giữ thông lệ đốt những cánh
đồng của họ vào mùa thu - khiến cho trong thời gian nhiều tuần, phần lớn
của thung lũng bị bao phủ bởi một màn khói. Các sản phẩm sữa,
được sản xuất chủ yếu cho thị trường địa phương, chiếm phần quan trọng
nhất trong ngành nông nghiệp tại Thung lũng Willamette và dâu tây có lẽ
là đặc sản quan trọng nhất của vùng. Những loại cây quả đặc sản khác
sinh trưởng rất tốt trong khí hậu của thung lũng bao gồm cây hublông,
các loại cỏ chăn nuôi, anh đào và bạc hà lục. Thậm chí ngành trồng nho
nuôi sống công nghiệp sản xuất rượu vang địa phương cũng tăng lên trong
những năm gần đây. Vùng đất thấp Puget Sound thuộc Washington là
một khu vực sản xuất sữa quan trọng khác. ở đây, các loại cây đặc sản
cũng sinh sôi mà đứng đầu là đậu. Được xử lý đông lạnh nhanh và được vận
chuyển đến thị trường trên khắp nước Mỹ - những loại rau quả của mùa
lạnh này đặc biệt thích nghi với khí hậu trong vùng này. Khu vực
phía đông của Cascade thuộc Washington lại cho thấy một bức tranh phong
cảnh nông thôn kiểu khác. Hầu hết vùng này đều khô hạn, cỏ và các loài
cây bụi đã thay thế cho những cây cối thường xuyên xanh tươi của vùng bờ
biển và những ngọn núi. Mặc dù được gọi là Cao nguyên Columbia nhưng
khu vực này ít có sự bằng phẳng đặc trưng mà người ta thường thấy ở
những cao nguyên. Hầu hết vùng này được bao phủ bởi những ngọn đồi nhấp
nhô kế tiếp nhau. Đâu đó ở trung tâm Washington, phong cảnh này bị cắt
ngang bởi những khe núi dốc đứng khô cằn được gọi là dòng chảy của nham
thạch. Khu vực này - đúng ra phải gọi là “dòng đất đóng vảy” bởi nham
thạch đã vẽ lên bề mặt của khung cảnh những đám vảy giống như những ụ
nhỏ - được bao phủ bởi một tấm chăn nham thạch lớn bị xói mòn bởi lụt
lội do băng tan chảy trong suốt giai đoạn cuối thời kỳ Băng hà. Khu
vực thuộc Cao nguyên Columbia dọc theo ranh giới Oregon - Washington và
xuyên suốt phần lớn đông Washington là một vùng đất nông nghiệp đáng
kể, rõ ràng là chiếm vị trí quan trọng nhất tại Tây Bắc Thái Bình Dương. Vùng
đồi núi nông thôn phía đông - trung tâm Washington, có tên gọi là
Palouse, có lượng mưa trung bình hàng năm từ 35 đến 65 cm, nhiều hơn
những vùng khác thuộc nội địa. Lúa mỳ là loại cây nông sản chính của
vùng với các loài khác nhau mọc cả về mùa xuân và mùa đông. Lúa mỳ
thường được trồng ở một cánh đồng nhất định cách mỗi năm một lần, cách
một năm, cánh đồng lại được cày xới nhưng không trồng trọt gì cả. Thông
lệ này làm chậm lại quá trình thoát hơi nước và cho phép độ ẩm trong đất
tăng lên. Những trang trại lúa mỳ rộng lớn của Palouse được cơ khí hóa
mạnh mẽ và có năng suất rất cao. Hầu hết những sản phẩm thu được đều
xuất khẩu từ Portland đến châu á. Sự tưới nước đóng một vai trò
quan trọng trong nền nông nghiệp của khu vực những thập niên gần đây.
Hai khu vực tưới nước lớn đã được phát triển. Nước từ một số con suối
chảy từ Cascade về phía đông được sử dụng để tưới nước cho những thung
lũng tương đối hẹp. Kết quả thu được chính là một trong những vùng sản
xuất táo nổi tiếng nhất đất nước đã ra đời ở nơi đây. Dòng sông
Columbia, phía tây bắc Grand Coulee thuộc Spokane, ban đầu được ngăn
bằng đập để làm thủy điện. Con sông này cũng cung cấp một khối lượng
nước tưới khá lớn cho vùng phía nam - trung tâm Washington. Sau khi
lượng nước tưới tiêu này trở nên sẵn có hơn vào cuối những năm 1950,
diện tích trồng trọt tương ứng cũng được mở rộng đáng kể. Những nông sản
chủ yếu bao gồm củ cải đường, khoai tây, cỏ linh lăng và đậu khô. Washington,
California và Oregon cùng nhau cung cấp hơn một nửa lượng gỗ xây dựng
tại Hoa Kỳ, còn Washington chiếm vị trí đứng đầu (cùng với bang Georgia)
về bột giấy và sản xuất giấy. Mặc dù khai thác rừng là ngành công
nghiệp hàng đầu tại North Pacific Coast, những cánh rừng giầu có của khu
vực này vẫn không có tầm quan trọng mang tính chất quốc gia cho đến tận
thế kỷ thứ 20, khi những phương tiện giao thông vận tải đã được cải
thiện cùng với việc khai thác quá mức dẫn đến huỷ hoại nhiều cánh rừng
phía đông, cánh cửa của ngành khai thác gỗ mới mở ra đối với khu vực
này. Những cây linh sam Douglas (chủ yếu là được sử dụng để làm
khung, sàn nhà, cánh cửa và gỗ dán) rõ ràng là loại cây gỗ được khai
thác chính của khu vực, mặc dù mỗi vùng có sự pha trộn các loại cây khác
nhau có thể thu hoạch. Ví dụ, tại phía bắc California gỗ sồi đỏ vẫn
chiếm được vị trí quan trọng trong địa phương; về phía tây, cây tuyết
tùng đỏ cũng được khai thác một cách rộng rãi kể từ Oregon trở lên phía
bắc. Kích thước lớn của các loại cây gỗ cộng với việc cách khá xa
các thị trường có xu hướng khuyến khích hoạt động đốn gỗ với quy mô lớn.
Ví dụ, một trong những công ty khai thác gỗ lớn của Hoa Kỳ đã sở hữu
690.000 hecta đất rừng tại Washington, khiến cho họ trở thành chủ sở hữu
đất tư nhân lớn nhất trong bang. Một phần đáng kể của Washington và đa
phần các vùng đất tại Oregon cũng như bắc California là do chính phủ sở
hữu. Hoạt động khai thác gỗ tư nhân trên đất của nhà nước cũng chiếm một
vai trò quan trọng trong nền sản xuất nói chung. Công việc tiếp thị hữu
hiệu cũng đã cho phép những sản phẩm đồ gỗ của khu vực xâm nhập vào mọi
khu vực thị trường trên đất nước. Lượng mưa dồi dào và địa hình
không bằng phẳng của North Pacific Coast mang lại một tiềm năng thủy
điện không gì sánh nổi ở Hoa Kỳ - 40% tiềm năng thủy điện của quốc gia
tập trung tại riêng Washington và Oregon. Đặc biệt, sông Columbia với
lưu lượng dòng chảy lớn hơn sông Missisippi và đổ từ độ cao 300 m trong
suốt dòng chảy dài 1200 km của mình từ biên giới Hoa Kỳ - Canada tới
biển là một tiềm năng rất khả quan đối với những người xây dựng thủy
điện. Được bắt đầu khởi công vào năm 1933 và là lớn nhất trong khu
vực, Grand Coulee là con đập đầu tiên được xây dựng trên sông Columbia.
Tiếp theo sau nó là không ít hơn 10 con đập nhỏ xuôi theo dòng chảy.
Bristish Columbia và Hoa Kỳ đã thống nhất xây dựng tại Canada 3 con đập
bổ sung có thể dự trữ nước trong những giai đoạn có dòng chảy mạnh và
sau đó cung cấp lượng nước này khi dòng chảy yếu đi nhằm đảm bảo việc
phát điện liên tục. Những tiến triển này đã cung cấp nguồn điện
chi phí thấp cho North Pacific Coast. Đến lượt nguồn điện chi phí thấp
này lại hấp dẫn những nhà sản xuất là những người tiêu thụ điện mạnh,
nổi bật nhất là ngành công nghiệp luyện nhôm. Khai thác rừng và
đánh bắt cá đồng thời tạo thành xương sống cho nền kinh tế khu vực. Một
số lượng lớn các tàu thuyền đánh bắt cá voi đã bị hấp dẫn tới vùng nước
lạnh Bắc Thái Bình Dương trong thời gian thế kỷ thứ 18 và nửa đầu thế kỷ
thứ 19. Việc đánh bắt quá nhiều đã làm cho số lượng cá voi ở Bắc Thái
Bình Dương giảm tới một phần rất nhỏ so với mức trước đây. Cá hồi
góp một phần chủ yếu vào thực phẩm của các bộ lạc ven biển trước khi có
sự xâm nhập của những người châu Âu và cũng là loài cá chủ yếu được đánh
bắt trong khắp vùng. Cá hồi di cư ngược lên đầu nguồn để sinh sản trong
nước ngọt. Nhiều năm trước đây, trứng cá hồi trôi nổi đầy các con sông
và việc đánh bắt với quy mô lớn thường rất phổ biến đối với dân cư hai
bên bờ sông. Quy mô của việc đánh bắt cá hồi đã giảm xuống rất
nhiều trong năm thập kỷ gần đây, đến bây giờ mức đánh bắt chỉ còn lại
một nửa so với mức trước đây. Hầu hết cá hồi ngày nay được đánh bắt
ngoài biển Alaska. Khi người ta đắp đập trên những con suối trong vùng
thì lối vào nhiều bãi đẻ trứng truyền thống đã bị chặn lại, đặc biệt là
tại thượng nguồn và phụ lưu sông Columbia. Những chiếc thang cá - một
loạt các bậc thang chở nước kế tiếp nhau khiến cho cá có thể có nhảy qua
từng bậc một và vượt qua đập - đã được xây dựng quanh một số con đập
nhỏ nhưng chẳng thể phát huy tác dụng đối với những con đập lớn. Chính
vì vậy mà gần như toàn bộ dòng sông Snake và các phụ lưu của nó, cộng
với tất cả các nhánh của sông Columbia phía trên Grand Coulee đều đóng
lại đối với những con cá hồi. Alaska - một hòn đảo chính
trị Bờ biển phía nam Alaska rõ ràng là một phần North
Pacific Coast nhưng người ta buộc phải nhìn nhận nó như là một miền đất
tách biệt với phần còn lại của khu vực. Alaska không có đường sắt nối
liền với những phần đông dân cư hơn của lục địa mà chỉ có một đường cao
tốc dài duy nhất, đôi chỗ vẫn chưa được lát hết, nối liền bờ biển nam
Alaska xuyên qua nội địa Canada với phần còn lại của Hoa Kỳ. Dân cư ở
Panhandle của Đông Nam Alaska tụ tập cạnh những dãy núi ven biển trên
một dải bờ biển hẹp hiếm khi có chiều rộng lớn hơn vài trăm mét. Khu vực
này chỉ trông chờ vào vận tải đường biển và hàng không để liên lạc với
phần còn lại của thế giới, điều này càng dẫn tới một cảm giác lớn hơn về
tính độc lập trên mức đặc trưng so với những khu vực còn lại của vùng
này, về sự tách biệt với những hoạt động của các vùng trong quốc gia và
về một nền kinh tế đắt đỏ do sự khan hiếm và chi phí vận chuyển cao. Nhiều
người tin rằng nền kinh tế Alaska dựa chủ yếu trên khoáng sản, khai
thác gỗ và đánh bắt hải sản. Trong thực tế, chính phủ liên bang mà chủ
yếu là Bộ Quốc phòng mới là người sử dụng nhân công chủ yếu trong bang.
Thậm chí sự bùng nổ về phát triển dầu lửa tại North Slope trong bang
cũng chỉ làm cho chiều hướng này lệch đi đôi chút chứ không hề loại bỏ
được nó.
Nội dung
-
- Chương 1: Các chủ đề và khu vực
- Chương 2: Môi trường tự nhiên
- Chương 3: Những nền tảng hoạt động của con người
- Chương 4: Khu siêu đô thị
- Chương 5: Vùng trọng điểm chế tạo
- Chương 6: Miền đông bị quên lãng
- Chương 7: Appalachia và Ozark
- Chương 8: Vùng cực nam
- Chương 9: Vùng đất ven biển phía nam
- Chương 10: Vùng trọng điểm nông nghiệp
- Chương 11: Vùng đồng bằng và thảo nguyên lớn
- Chương 12: Vùng đất trống trong nội địa
- Chương 13: Vùng biên giới Tây Nam
- Chương 14: California
- Chương 15: Vùng bờ biển Bắc Thái Bình Dương
- Chương 16: Vùng đất phía bắc
- Chương 17: Hawaii