NGĂN CHẶN
NẠN RỬA TIẾN
Hướng dẫn dành cho Công ty Dịch vụ Tiền tệ
Vietnamese 2007 |
Mạng lưới Thi hành Luật pháp về Tội phạm Tài chính
Bộ Tài chính Mỹ, Washington, DC |
Doanh nghiệp của bạn có thể là một Công ty Dịch vụ Tiền tệ
(viết tắt tiếng Anh là MSB) nếu...
-VÀ-
-HOẶC
Mục lục
Lời giới thiệu Mục đích của rửa tiền là để che giấu hành vi bất hợp pháp, bao gồm các hành vi phạm tội để thu được số tiền đó, chẳng hạn như buôn lậu ma túy. Rửa tiền che đậy nguồn gốc của các khoản tiền bất hợp pháp để tiền có thể sử dụng mà không bị phát hiện nguồn gốc tội phạm. Các tổ chức tài chính - bao gồm hệ thống các công ty dịch vụ tiền tệ đang ngày càng mở rộng - đã và đang là những thành phần vô tình hoặc cố ý tham gia vào các hoạt động rửa tiền. Các ngân hàng thường là đối tượng chính của hoạt động rửa tiền bởi vì ngân hàng cung cấp nhiều loại hình dịch vụ và phương tiện tiền tệ đa dạng, bao gồm séc bảo chi, chi phiếu du lịch và chuyển tiền ngân hàng. Những dịch vụ này có thể bị lợi dụng để che giấu nguồn gốc của các khoản tiền bất hợp pháp. Tương tự, bọn tội phạm thường lợi dụng MSB - những công ty cung cấp các dịch vụ về thư chuyển tiền, chi phiếu du lịch, séc bảo chi, trả tiền mặt lấy séc, đổi tiền và thẻ mang giá trị - để che giấu hoặc ngụy trang nguồn gốc của các khoản tiền có từ hoạt động bất hợp pháp. Để các tổ chức tài chính tự bảo vệ mình và đồng thời hỗ trợ những nỗ lực chống lại tội phạm tài chính của quốc gia và quốc tế, điều quan trọng là các MSB phải biết các chương trình rửa tiền được tiến hành như thế nào. Hướng dẫn này cung cấp một số thông tin cơ bản về các quy định luật pháp chống rửa tiền, thảo luận về các biện pháp chống rửa tiền đang được tiến hành trên thế giới và mô tả một số chương trình rửa tiền có sự tham gia của các tổ chức tài chính, đồng thời cung cấp một số ví dụ về những dấu hiệu có thể giúp MSB tự bảo vệ mình trước bọn tội phạm rửa tiền và những loại tội phạm khác. Rửa tiền có thể là một quá trình rất phức tạp. Nó bao gồm ba giai đoạn khác nhau và đôi khi trùng lặp: Sắp đặt là giai đoạn đưa khoản tiền kiếm được một cách bất hợp pháp vào hệ thống tài chính hoặc nền kinh tế thông thường. Trong giai đoạn này, tiền dễ bị phát hiện và tịch thu nhất. Phân tán là giai đoạn chia nhỏ khoản tiền kiếm được một cách bất hợp pháp từ nguồn gốc tội phạm thông qua một loạt các giao dịch, khiến cho việc tìm kiếm nguồn gốc ban đầu của số tiền trở nên khó khăn. Lưu thông là giai đoạn chuyển đổi khoản tiền dưới một hình thức có vẻ như là hợp pháp. Các hoạt động lưu thông có thể bao gồm: mua xe ô tô, công ty, bất động sản, v.v. Một nhân tố quan trọng kết nối ba giai đoạn của quá trình này là “dấu vết giấy tờ” phát sinh từ các giao dịch tài chính. Tội phạm thường cố gắng không để lại “dấu vết giấy tờ” bằng cách né tránh các yêu cầu về báo cáo và lưu trữ hồ sơ. Một trong những biện pháp mà bọn rửa tiền sử dụng để tránh các yêu cầu về báo cáo và lưu trữ hồ sơ là “cơ cấu lại” các giao dịch, ép buộc hoặc hối lộ nhân viên ngân hàng để họ không nộp báo cáo đúng hoặc không hoàn tất hồ sơ theo yêu cầu, hoặc bằng cách thiết lập những hoạt động kinh doanh “bề mặt” có hình thức hợp pháp để mở tài khoản hoặc xây dựng những mối quan hệ khách hàng ưu đãi. Trong những năm gần đây, ngày càng có nhiều quốc gia triển khai các quy định luật pháp để chống lại nạn rửa tiền. Các cơ quan ra chính sách về dịch vụ tài chính và các cơ quan thi hành luật pháp trên toàn thế giới đang hợp tác nhằm cải thiện tình hình liên lạc và chia sẻ thông tin trong các nỗ lực chống lại nạn rửa tiền. Hướng dẫn này cung cấp cho bạn nội dung tóm tắt của những sáng kiến mang tầm quốc tế cũng như những nỗ lực mà chính phủ đã thực hiện để chống lại nạn rửa tiền tại Mỹ. Bạn cũng tìm thấy ở đây các biện pháp để góp phần chống lại tình trạng rửa tiền và giúp cho cộng đồng của bạn, quốc gia của bạn trở thành một nơi sống và làm việc an toàn hơn. phạm Tài chính (FinCEN), một cơ quan thuộc Bộ Tài chính Mỹ, có chức năng quản lý và ban hành các quy định chiểu theo Đạo luật Bảo mật Ngân hàng (BSA). Thông qua một số yêu cầu về báo cáo và lưu trữ hồ sơ của BSA, những dấu vết giấy tờ của các giao dịch được tạo lập và cơ quan thi hành luật pháp cũng như các cơ quan khác có thể sử dụng để những dấu vết này trong các cuộc điều tra hình sự, điều tra về thuế và luật pháp. Những điều khoản về báo cáo và lưu trữ hồ sơ của BSA được áp dụng đối với ngân hàng, tổ chức tiết kiệm và cho vay, liên hiệp tín dụng, công ty cung cấp dịch vụ thanh toán, (thường được gọi chung là “ngân hàng) và các doanh nghiệp khác được xác định là định chế tài chính, bao gồm sòng bạc, người môi giới và người giao dịch chứng khoán và các công ty dịch vụ tiền tệ (được gọi chung là “không phải ngân hàng”). Các quy định của BSA yêu cầu một số Công ty Dịch vụ Tiền tệ (MSB) nhất định đăng ký với FinCEN, soạn thảo và lưu giữ danh sách các đại lý, nếu có. Ngoài ra, quy định của BSA cũng yêu cầu một số MSB nhất định phải báo cáo về hành vi đáng ngờ lên FinCEN. (See 31 CFR103.20) 1. Đăng ký — một công ty được xác định là một MSB phải đăng ký hoạt động, ngoại trừ những trường hợp sau:
FinCEN hiện đang xem xét việc sửa đổi quy định SAR để yêu cầu các công ty thanh toán tiền mặt cho chi phiếu cũng phải báo cáo về hành vi đáng ngờ. 2. Danh sách Đại lý —
3. Báo cáo về Hành vi Đáng ngờ (SAR) — Các MSB được yêu cầu phải nộp SAR bao gồm:
MSB phải giữ một bản sao của tất cả các SAR đã nộp cũng như bản gốc hoặc các hồ sơ kinh doanh làm tài liệu chứng minh trong vòng năm năm kể từ ngày báo cáo. Tài liệu chứng minh phải được xác định theo đúng nghĩa, và mặc dù không được nộp cùng với báo cáo, những tài liệu chứng minh được hiểu là gắn liền với báo cáo đã nộp. Khi có yêu cầu, MSB phải cung cấp ngay tất cả các tài liệu chứng minh cho FinCEN và bất kỳ cơ quan thi hành pháp luật hoặc cơ quan giám sát liên quan khác (bao gồm IRS với tư cách là cơ quan kiểm tra thực hiện BSA). 4. Chương trình Tuân thủ Pháp luật về Chống Rửa tiền (AML) — tất cả các MSB, bao gồm các công ty phát hành, bán ra hoặc mua lại thẻ mang giá trị, đều phải xây dựng và triển khai một chương trình tuân thủ pháp luật về AML theo yêu cầu của Điều 352 thuộc Đạo luật Ái quốc Hoa Kỳ và được thực hiện theo quy định tại Điều 31 CFR 103.125. 5. Báo cáo Giao dịch Tiền tệ (CTR) — MSB phải nộp CTR về những giao dịch tiền tệ có giá trị trên 10.000 đô-la tiền mặt gửi vào hoặc rút ra do cùng một người hoặc đại diện của cùng một người tiến hành trong cùng một ngày thông qua MSB hoặc gửi đến MSB. 6. Hồ sơ về Công cụ Tiền tệ — MSB phải lưu giữ một số thông tin nhất định về việc bán ra các công cụ tiền tệ - chẳng hạn như thư chuyển tiền và chi phiếu du lịch - có tổng giá trị từ 3.000 đô-la đến 10.000 đô-la. 7. Các Quy tắc về Chuyển tiền — MSB phải lưu giữ một số thông tin nhất định về các giao dịch chuyển tiền, chẳng hạn như việc gửi và nhận một lệnh thanh toán cho một giao dịch chuyển tiền có giá trị từ 3.000 đô-la trở lên, bất kể phương thức thanh toán nào. 8.Hồ sơ về Đổi tiền — MSB phải lưu giữ một số hồ sơ nhất định cho mỗi giao dịch đổi tiền có giá trị trên 1.000 đô-la. 9. Lưu trữ Hồ sơ — Tất cả các hồ sơ BSA phải được lưu trữ trong thời gian năm năm và phải được cất giữ theo cách thức đảm bảo khả năng tiếp cận hồ sơ trong một khoảng thời gian hợp lý. Các quy định của BSA yêu cầu một số MSB nhất định phải đăng ký với FinCEN trước ngày 31 tháng 12 năm 2001. MSB được thành lập sau ngày này phải đăng ký trước khi kết thúc thời hạn 180 ngày kể từ ngày tiếp sau ngày MSB được thành lập. Bưu điện Mỹ và các cơ quan chính phủ Liên bang hoặc tiểu bang không phải đăng ký. Ngoài ra, những MSB chỉ cung cấp các dịch vụ thẻ mang giá trị cũng không cần phải đăng ký vào thời điểm này. MSB phải đăng ký lại hai năm một lần trước ngày 31 tháng 12 khi kết thúc thời gian hai năm dương lịch tính từ ngày đăng ký ban đầu. Ngoài ra, MSB được yêu cầu phải soạn thảo và lưu giữ danh sách các đại lý, nếu có, vào ngày 1 tháng 1 cho khoảng thời gian 12 tháng trước đó. Các MSB phải đăng ký bằng cách điền và nộp Đơn số 107 của FinCEN có tiêu đề Đơn Đăng ký của Công ty Dịch vụ Tiền tệ, hiện có tại địa chỉ www.msb.gov hoặc gọi điện tới Trung tâm Cung cấp Mẫu đơn IRS theo số 1-800-829-3676. Trách nhiệm đăng ký thuộc về chủ sở hữu hoặc người kiểm soát MSB và người này phải ký và nộp đơn đăng ký hoàn chỉnh. Nếu một MSB được yêu cầu phải đăng ký và có các đại lý, MSB đó phải soạn thảo và lưu giữ danh sách các đại lý này. Danh sách này phải được cập nhật trước ngày 1 tháng 1 hàng năm. Khi có yêu cầu, MSB phải cung cấp ngay danh sách này cho FinCEN cũng như bất kỳ cơ quan thi hành pháp luật liên quan khác, kể cả IRS. Thông thường, danh sách đại lý phải bao gồm:
MSB phải lưu giữ các tài liệu chứng minh, bao gồm bản sao của đơn đăng ký đã nộp, dự toán khối lượng kinh doanh, những thông tin về quyền sở hữu hoặc kiểm soát, và danh sách các đại lý trong khoảng thời gian năm năm. Hình phạt dân sự và hình sự có thể được áp dụng đối với những trường hợp vi phạm các quy định pháp luật về chống rửa tiền. Hình phạt có thể bao gồm những khoản tiền phạt đáng kể và bỏ tù. Bất kỳ MSB nào không tuân thủ các yêu cầu của BSA về báo cáo và lưu trữ hồ sơ có thể phải chịu mức phạt dân sự lên đến 500 đô-la vì những vi phạm do sơ sót, và mức phạt lớn hơn trong hai mức phạt sau đây sẽ được áp dụng đối với những trường hợp cố ý vi phạm: số tiền liên quan đến giao dịch (lên tới 100.000 đôla) hoặc 25.000 đô-la. Trong một số trường hợp nhất định, chủ doanh nghiệp có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự vì những hành vi của nhân viên họ. Hình phạt hình sự tối đa đối với vi phạm yêu cầu BSA là 500.000 đô-la tiền phạt hoặc bỏ tù tối đa 10 năm, hoặc cả hai. Bởi vậy, điều quan trọng là đội ngũ nhân viên phải được đào tạo bài bản về tuân thủ các quy định của BSA và thiết lập một hệ thống để bảo đảm rằng nhân viên làm theo tất cả các quy định luật pháp về chống rửa tiền. Các MSB có thể góp phần quan trọng trong việc hỗ trợ những nỗ lực chống rửa tiền của chính phủ liên bang. Tối thiểu, MSB cần phải đệ trình tất cả các báo cáo BSA một cách chính xác và kịp thời, tạo lập và lưu giữ các hồ sơ BSA chính xác trong khoảng thời gian cần thiết, xây dựng và duy trì các chương trình tuân thủ pháp luật phù hợp, và làm theo tất cả những hướng dẫn của Bộ Tài chính liên quan đến BSA. Pháp luật yêu cầu mỗi MSB xây dựng một chương trình tuân thủ pháp luật về chống rửa tiền (AML) hiệu quả. Điều luật yêu cầu MSB xây dựng và duy trì một chương trình AML được quy định tại Điều 31 CFR 103.125. Mỗi chương trình phải tương xứng với những rủi ro được xác định bởi địa điểm, quy mô, tính chất và khối lượng của các dịch vụ tài chính mà MSB cung cấp. Chẳng hạn, một công ty chuyển tiền quy mô lớn với khối lượng kinh doanh lớn đặt tại Los Angeles chịu rủi ro cao hơn một công ty thanh toán tiền mặt cho chi phiếu với quy mô và khối lượng kinh doanh nhỏ đặt tại Boise. Bởi vậy, một công ty chuyển tiền quy mô lớn ở California cần có một chương trình AML phức tạp hơn, tương ứng với rủi ro cao hơn, so với một công ty thanh toán tiền mặt cho chi phiếu với quy mô nhỏ ở Idaho vì nguy cơ bị lợi dụng cho mục đích rửa tiền của công ty sau thấp hơn. Một chương trình AML hiệu quả là chương trình được thiết kế để bảo đảm MSB không bị lợi dụng để tạo thuận lợi cho hoạt động rửa tiền. Mỗi chương trình AML phải được viết thành văn bản và cần phải:
Cam kết mạnh mẽ về quản lý chương trình AML sẽ góp phần tăng cường việc tuân thủ pháp luật và ngăn chặn bọn rửa tiền lợi dụng MSB. Ngoài ra, FinCEN khuyến khích các MSB áp dụng những chính sách và thủ tục trên cơ sở Tuyên bố Nguyên tắc của Ủy ban Basel về Rửa tiền, trong đó chủ trương:
Các chính sách và thủ tục chặt chẽ về xác nhận và thẩm tra thẻ căn cước của khách hàng có thể là vũ khí hiệu quả nhất của một tổ chức tài chính trong cuộc chiến chống lại nạn rửa tiền. Trong một số trường hợp, việc yêu cầu cung cấp thẻ căn cước phù hợp, xác minh thông tin và cảnh giác với những giao dịch bất thường hoặc đáng ngờ có thể giúp một MSB ngăn chặn hoặc phát hiện các âm mưu rửa tiền. Chính sách về xác nhận và thẩm tra thẻ căn cước của khách hàng phù hợp với hoạt động kinh doanh cụ thể của công ty sẽ:
Báo cáo về Hành vi Đáng ngờ (SAR) là một trong những vũ khí chủ yếu của chính phủ trong cuộc chiến chống lại nạn rửa tiền và những tội phạm tài chính khác. Những báo cáo này cũng là thành phần then chốt của một chương trình tuân thủ pháp luật về chống rửa tiền hiệu quả. Nhiều MSB được yêu cầu phải đệ trình SAR khi họ nghi ngờ một hành vi có thể bất hợp pháp đã diễn ra và khi hành vi đó hội đủ các điều kiện liên quan về báo cáo. Các yêu cầu về SAR hiện được áp dụng đối với những loại hình MSB sau đây:
FinCEN hiện đang xem xét việc sửa đổi quy định SAR để yêu cầu các công ty thanh toán tiền mặt cho chi phiếu cũng phải báo cáo về hành vi đáng ngờ. Tại thời điểm này, những MSB chỉ cung cấp dịch vụ liên quan đến thẻ mang giá trị không cần phải báo cáo về hành vi đáng ngờ. Hãy truy cập trang web www.msb.gov để biết thông tin cập nhật về những MSB được yêu cầu phải nộp SAR. MSB phải nộp SAR khi một giao dịch hội đủ hai điều kiện sau đây:
MSB phải đệ trình SAR trong vòng 30 ngày kể từ ngày phát hiện ra giao dịch đáng ngờ. Những MSB hiện không phải áp dụng quy định về SAR - chẳng hạn như các công ty phát hành, bán ra hoặc mua lại thẻ mang giá trị - có thể tự nguyện nộp SAR. Bất kỳ MSB nào cũng có thể tự nguyện nộp báo cáo về hành vi đáng ngờ liên quan đến những giao dịch có giá trị dưới mức quy định phải báo cáo. Việc thông báo cho bất kỳ người nào dính líu đến giao dịch mà bạn đã đệ trình Báo cáo Hành vi Đáng ngờ là vi phạm pháp luật. Bảo đảm bí mật cho SAR sẽ ngăn chặn những cá nhân bị nghi ngờ dính líu vào hành vi phạm tội tổ chức các hoạt động để tránh bị cơ quan pháp luật phát hiện. Điều này cũng góp phần bảo vệ MSB nộp báo cáo. SAR và /hoặc những thông tin có trong SAR chỉ được cung cấp cho FinCEN hoặc một cơ quan giám sát hoặc thi hành pháp luật liên quan, khi có yêu cầu. Một số giao dịch đáng ngờ cần phải có hành động xử lý ngay lập tức. Nếu MSB có lý do để nghi ngờ những giao dịch của một khách hàng có thể liên quan đến hoạt động khủng bố chống lại nước Mỹ, MSB đó phải ngay lập tức gọi điện thoại miễn phí đến Đường dây nóng về các Tổ chức Tài chính theo số: 1-866-556-3974. Tương tự, nếu bất kỳ vi phạm đáng ngờ nào khác - chẳng hạn như các chương trình rửa tiền đang diễn ra - đòi hỏi phải xử lý ngay lập tức, MSB cần phải thông báo cho cơ quan thi hành pháp luật liên quan. Trong mọi trường hợp, MSB luôn phải đệ trình một Báo cáo về Hành vi Đáng ngờ nếu MSB thuộc diện bắt buộc báo cáo. Một điều khoản trong BSA cung cấp bảo đảm rộng rãi về miễn trách nhiệm dân sự cho MSB và các nhân viên đã nộp SAR hoặc thông báo về hành vi đáng ngờ. MSB phải đệ trình Báo cáo về Hành vi Đáng ngờ khi MSB biết, nghi ngờ hoặc có lý do để nghi ngờ rằng giao dịch hoặc cơ cấu giao dịch là đáng ngờ với tổng giá trị từ 2.000 đô-la trở lên. Giao dịch đáng ngờ là một trong những giao dịch sau đây:
Tất cả các MSB cần có cơ chế hoặc thủ tục để bảo đảm rằng báo cáo về hành vi đáng ngờ sẽ được đệ trình khi cần thiết. Khi nhân viên của MSB nghi ngờ một người nào đó đang rửa tiền, tiến hành giao dịch để né tránh các yêu cầu của BSA hoặc tiến hành giao dịch mà không có mục đích hợp pháp rõ ràng nào và không đưa ra được lời giải thích hợp lý, hoặc liên quan đến việc lợi dụng công ty dịch vụ tiền tệ để tạo điều kiện cho hành vi tội phạm, nhân viên đó phải báo cáo về hành vi đáng ngờ này lên người quản lý hoặc người giám sát tuân thủ pháp luật của MSB. Sau đó, nếu MSB quyết định cần phải báo cáo về hành vi đáng ngờ này, MSB sẽ nộp SAR và giữ một bản sao trong vòng 5 năm. Bất kỳ tài liệu chứng minh nào, chẳng hạn như hồ sơ giao dịch, phải được lưu giữ cùng với bản sao của SAR trong khoảng thời gian 5 năm kể từ ngày nộp báo cáo.
“Ngân quỹ Bắt nguồn từ
Hành vi Bất hợp pháp” là gì?
Cụm từ “ngân qũy bắt nguồn từ hành vi bất hợp pháp” dùng để chỉ những khoản tiền thu được từ hành vi tội phạm. Ví dụ: Một người buôn lậu ma túy bán ma túy cho một người khác với giá 500 đô-la. Số tiền thu được từ người mua ma túy, 500 đô-la, là tiền kiếm được từ buôn bán ma túy và được gọi là “ngân quỹ bắt nguồn từ hành vi bất hợp pháp.”
Giao dịch “được Dàn xếp để Né
tránh các Yêu cầu của BSA” là gì?
Ví dụ: Một khách hàng thực hiện một giao dịch trị giá 11.000 đô-la và đang cố gắng hối lộ nhân viên MSB để không phải nộp Báo cáo Giao dịch Tiền tệ (CTR).
Giao dịch “Không Phục vụ Mục
đích Kinh doanh hay Bất kỳ Mục
đích Hợp pháp Rõ ràng nào” là gì?
Một số giao dịch được tiến hành theo một cách thức cho thấy những giao dịch đó có vẻ bất thường hoặc đáng ngờ. Tuy nhiên, những dữ liệu thực tế khác, nếu MSB biết được, có thể cho thấy cơ sở hợp lý để xác định sơ bộ giao dịch nào có vẻ bất thường hoặc đáng ngờ. Ví dụ: Một khách hàng là giáo viên đã nghỉ hưu thường xuyên nhận và chuyển những khoản tiền trị giá trên 2.000 đô-la từ nhiều người và đến nhiều người khác nhau. MSB có thể kết luận sơ bộ rằng những giao dịch này là đáng ngờ bởi vì dường như chúng “không phục vụ mục đích kinh doanh hay bất kỳ mục đích hợp pháp rõ ràng nào” và dường như những khoản tiền này không có nguồn gốc hợp pháp. Tuy nhiên, khi tổng hợp thêm nhiều thông tin, MSB kết luận rằng những giao dịch này thực sự phục vụ cho một mục đích kinh doanh. Chẳng hạn, người giáo viên nghỉ hưu đó thường xuyên sử dụng trang web bán đấu giá trên Internet để mua và bán đồ trang sức cổ.
Giao dịch “Liên quan đến việc
Lợi dụng MSB để Tạo thuận lợi
cho Hành vi Tội phạm” là gì?
Ví dụ: MSB nghi ngờ rằng một khách hàng của họ đang chuyển tiền để tài trợ cho một tổ chức khủng bố. Điều quan trọng cần lưu ý là: quy mô giao dịch, chẳng hạn như giao dịch hay chuyển tiền với khối lượng tiền mặt lớn, không phải là yếu tố quyết định duy nhất trong việc quyết định có nên đệ trình SAR hay không. Cần xem xét những yếu tố khác trong việc đưa ra quyết định, bao gồm: quy mô, tần suất và tính chất của giao dịch; kinh nghiệm làm việc giữa MSB với khách hàng và những cá nhân, tổ chức khác liên quan đến giao dịch (nếu có); và tiêu chuẩn đối với giao dịch trong phạm vi lĩnh vực kinh doanh và khu vực địa lý của MSB. Khi chỉ có một yếu tố báo hiệu rằng giao dịch là bất thường hoặc có thể “đáng ngờ,” yếu tố đó được gọi là “báo động đỏ”.
Một số ví dụ về những
Thẻ căn cước hoặc
Những Giao dịch Dưới Mức Quy định phải Báo cáo hoặc Lưu trữ Hồ sơ Khối lượng giao dịch của khách hàng thấp hơn các mức sau:
Nhiều Người hoặc Nhiều Địa điểm
Hành vi Bất hợp pháp
Nếu MSB thẩm tra đúng và có cơ sở chứng minh nhân thân của khách hàng thì sẽ có nhiều khả năng xác định những hành vi đáng ngờ nào cần được báo cáo. Các chương trình rửa tiền có thể rất khác nhau. Trước đây, các biện pháp chống rửa tiền của chính phủ liên bang chủ yếu tập trung vào việc xác định và tổng hợp tài liệu về những giao dịch tiền tệ quy mô lớn. Trong những năm gần đây, các nỗ lực chống rửa tiền chú ý đến việc lợi dụng giao dịch chuyển tiền, thông qua ngân hàng hoặc những hệ thống chuyển tiền khác không phải ngân hàng, và những phương thức chuyển tiền khác. Ngày nay, tội phạm rửa tiền ngày càng trở nên tinh vi nên tất cả các dạng giao dịch tài chính cần được theo dõi chặt chẽ hơn. Những tình huống sau đây có thể cho thấy hành vi rửa tiền hoặc hành vi tội phạm khác. Danh sách này chưa phải là toàn diện nhưng có thể giúp các MSB nhận biết được những cách thức mà tội phạm rửa tiền và những tội phạm khác thường sử dụng để rửa tiền. Những Cách thức Né tránh Yêu cầu về Báo cáo và Lưu trữ Hồ sơ của BSA Khách hàng muốn giữ khối lượng giao dịch của họ dưới mức quy định phải báo cáo hoặc lưu trữ hồ sơ, ví dụ:
Khách hàng Cung cấp Không đủ Thông tin và/hoặc Thông tin Đáng ngờ Khách hàng là cá nhân hoặc doanh nghiệp có thể cố tình né tránh yêu cầu về giấy tờ căn cước, ví dụ:
Hành vi Không phù hợp với Hoạt động Kinh doanh hoặc Nghề nghiệp của Khách hàng Hãy xem xét những trường hợp ví dụ sau đây về hành vi không phù hợp của khách hàng:
Những Đặc điểm hoặc Hành vi Bất thường Hãy lưu ý bất kỳ đặc điểm bất thường nào, chẳng hạn:
Thay đổi trong Giao dịch Hãy cảnh giác với những thay đổi trong hành vi của khách hàng, chẳng hạn:
Nhân viên Hãy giám sát hành vi của nhân viên, ví dụ:
Thông thường, sau khi được kiểm tra kỹ hơn, những tình huống như mô tả ở phần trên được xác định là hoàn toàn hợp pháp. Trong khi đó, có những tình huống khác không được đề cập ở đây có thể là đáng ngờ nếu không phù hợp với hành vi thông thường của một khách hàng hay nhân viên nào đó. Bởi vậy, với tư cách là MSB hoặc nhân viên MSB, bạn phải đưa ra những nhận định hợp lý. MSB phải tuân thủ các quy định khác của BSA về báo cáo và lưu trữ hồ sơ. Sau đây là một số nội dung sơ lược của những yêu cầu này: MSB phải đệ trình báo cáo về mỗi giao dịch tiền tệ với khối lượng tiền mặt gửi vào hoặc rút ra trên 10.000 đô-la do MSB tiến hành, hoặc được tiến hành thông qua MSB, hoặc được chuyển đến MSB trong cùng một ngày hoặc thay mặt cho cùng một người. (See 31CFR103.22) Bởi vậy, pháp luật yêu cầu MSB phải cung cấp CTR về giao dịch khi giao dịch đó hội đủ tất cả những điều kiện sau đây:
Tính Tổng Nhiều giao dịch do cùng một người thực hiện hoặc được thực hiện thay mặt cho cùng một người trong cùng một ngày được tính là một giao dịch tổng và cần phải có báo cáo CTR. Nói cách khác, MSB phải đệ trình CTR nếu MSB biết rằng tổng khối lượng giao dịch tiền mặt gửi vào hoặc rút ra của khách hàng vượt quá 10.000 đô-la trong một ngày. Tiền mặt gửi vào và Tiền mặt rút ra Các giao dịch tiền mặt gửi vào phải được cộng với các giao dịch tiền mặt gửi vào, và các giao dịch tiền mặt rút ra phải được cộng với các giao dịch tiền mặt rút ra để xác định liệu tổng khối lượng giao dịch trong một ngày của khách hàng có cao hơn mức quy định phải đệ trình báo cáo CTR (10.000 đô-la) hay không. Nộp Báo cáo Giao dịch Tiền tệ Mẫu Báo cáo Giao dịch Tiền tệ là Mẫu IRS 4789, hiện có tại địa chỉ www.msb.gov hoặc hãy gọi điện đến Trung tâm Cung cấp Mẫu đơn IRS theo số 1-800-829-3676. MSB phải điền vào mẫu báo cáo trong vòng 15 ngày kể từ ngày diễn ra (các) giao dịch. Distribution Center at 1-800-829-3676. The form must be filed within 15 days from the date of the transaction(s). Các quy định về CTR yêu cầu MSB phải:
Hồ sơ Chứng từ Tiền tệ - đối với các Giao dịch mua Thư chuyển tiền, Chi phiếu Du lịch và những Chứng từ khác bằng tiền mặt MSB cung cấp thư chuyển tiền, chi phiếu du lịch và những công cụ tiền tệ khác để lấy tiền mặt phải xác minh căn cước của khách hàng và lập hồ sơ cho mỗi giao dịch mua bán nếu giao dịch đó có tổng giá trị từ 3.000 đến 10.000 đô-la. Bởi vậy, pháp luật yêu cầu lập hồ sơ khi:
Yêu cầu về Hồ sơ Chứng từ Tiền tệ đòi hỏi MSB phải:
Các Quy tắc Chuyển tiền MSB nhận được yêu cầu chuyển tiền trị giá 3.000 đô-la trở lên phải xác minh căn cước của khách hàng gửi tiền, sau đó lập và lưu trữ hồ sơ về giao dịch chuyển tiền, bất kể phương thức thanh toán nào. (See 31CFR103.33(f)) Ngoài ra, một số thông tin nhất định phải được truyền đạt đến bên thứ ba, có nghĩa là: MSB phải gửi những thông tin đó đến MSB tiếp theo hoặc tổ chức tài chính xử lý việc chuyển ngân. Đối với Người nhận tiền MSB nhận được yêu cầu thanh toán khoản chuyển ngân trị giá từ 3.000 đô-la trở lên phải xác minh căn cước của khách hàng nhận tiền, sau đó lập và lưu trữ hồ sơ về giao dịch chuyển tiền, bất kể phương thức thanh toán nào. Quy định về hồ sơ chuyển tiền yêu cầu người chuyển tiền phải:
Hồ sơ Đổi tiền Công ty đổi tiền phải lập và lưu trữ hồ sơ cho mỗi giao dịch đổi tiền có giá trị trên 1.000 (See CFR103.37) đô-la. Đổi tiền có thể là nội tệ, ngoại tệ hoặc cả hai. Do đó, luật pháp yêu cầu lập hồ sơ đổi tiền khi:
Ví dụ: Một khách hàng muốn đổi 3.000 đôla Canada sang đô-la Mỹ, hoặc một khách hàng muốn đổi 1.500 đô-la Mỹ theo tờ 20 đô-la thành 1.500 đô-la Mỹ theo tờ 100 đô-la. Cả hai trường hợp giao dịch nêu trên đều yêu cầu phải lưu hồ sơ. Quy định về hồ sơ đổi tiền bao gồm những yêu cầu sau đây đối với công ty đổi tiền:
Danh sách những báo cáo sau đây có thể được sử dụng để phát hiện hành vi rửa tiền trong các giao dịch của các MSB. Nhiều MSB đã xây dựng các cơ chế lập báo cáo về giao dịch tiền mặt gửi vào và rút ra. Thông thường, những báo cáo này liên quan đến những giao dịch có khối lượng cao hơn mức quy định cần phải báo cáo. Ví dụ, nhiều công ty chuyển tiền đặt ra các yêu cầu về xác định căn cước khách hàng đối với những giao dịch trị giá trên 3.000 đô-la. Những báo cáo này có thể giúp xác định những khách hàng đang tìm cách cơ cấu lại các giao dịch để né tránh yêu cầu về báo cáo và lưu trữ hồ sơ của BSA hoặc những người đang dính líu vào các hoạt động bất thường khác. Các công ty phát hành chi phiếu du lịch hoặc thư chuyển tiền và các công ty chuyển tiền thường xây dựng các cơ chế lập báo cáo về những giao dịch có thể liên quan đến hành vi thả bổng. Hành vi thả bổng là việc ký thác và rút chi phiếu trong các tài khoản tại hai hoặc nhiều ngân hàng, theo đó hưởng được lợi thế thả nổi, nghĩa là hưởng được khoảng thời gian mà ngân hàng ký thác thu tiền từ ngân hàng chi trả. Những báo cáo về mánh khoé thả bổng cũng có thể phát hiện những hành vi bất thường khác có thể liên quan đến rửa tiền. Các công ty chuyển tiền thường xây dựng những cơ chế lập báo cáo về các giao dịch hàng ngày và những loại báo cáo khác để xác định những phương thức chuyển tiền khác nhau được xử lý thông qua những cơ chế này (chẳng hạn báo cáo đầy đủ về tất cả những giao dịch chuyển tiền từ nước A đến nước B trong một khoảng thời gian cụ thể.) Những báo cáo này có thể giúp phát hiện các hành vi khác thường có thể liên quan đến rửa tiền. Tùy vào loại báo cáo và tần suất báo cáo, những báo cáo này có thể giúp phát hiện hành vi khác thường của khách hàng. Những báo cáo này cũng có thể giúp phát hiện hành vi khác thường của những công ty làm đại lý cho các công ty chuyển tiền. Những báo cáo về các giao dịch tiền tệ có tổng giá trị từ 3.000-10.000 đô-la theo yêu cầu của các quy định BSA có thể giúp MSB phát hiện những phương thức cơ cấu lại giao dịch tiền tệ mà khách hàng có thể tiến hành. Ví dụ: những thông tin được lưu thành hồ sơ giúp MSB xác định những khách hàng có thể đang cơ cấu lại các giao dịch để né tránh yêu cầu về báo cáo và lưu trữ hồ sơ của BSA. Các công ty phát hành thư chuyển tiền hoặc chi phiếu du lịch thường xây dựng những cơ chế lập hồ sơ về các khoản mục hàng ngày được xuất trình để thanh toán từ tài khoản ngân hàng của công ty phát hành. Nhiều công ty phát hành đã thiết kế các chương trình để nhận biết những hình thức khác thường của các chứng từ đã thanh toán. Những báo cáo này có tác dụng rất hữu ích trong việc xác định các khoản mục có thể đã được sử dụng cho những mục đích bất hợp pháp. Những hồ sơ này được lập theo yêu cầu của các quy định BSA và có tác dụng giúp cho công ty chuyển tiền xác định được những hành vi cơ cấu lại giao dịch. Hồ sơ chuyển tiền từ 3000 đôla trở lên, bất kể phương thức thanh toán nào, giúp phát hiện ra những khách hàng có thể đang cơ cấu lại các giao dịch để né trannhs yêu cầu về báo cáo và lưu trữ hồ sơ của BSA. Một số MSB áp dụng các chương trình ưu đãi khách hàng để khuyến khích khách hàng sử dụng dịch vụ thường xuyên. MSB có thể lập báo cáo để theo dõi phản ứng của từng khách hàng hoặc hành vi nói chung của khách hàng. Những báo cáo này tác dụng hữu ích trong việc xác định những giao dịch bất thường hoặc phương thức giao dịch bất thường. Những mô tả sau đây nhằm mục đích giúp MSB nhận biết những hoạt động mà bọn tội phạm thường tiến hành để rửa tiền, đồng thời khẳng định nhu cầu phải áp dụng các chương trình nhận dạng khách hàng chặt chẽ. Ngoài ra, mặc dù những kết quả điều tra quan trọng này chủ yếu liên quan đến các ngân hàng nhưng MSB cũng có thể rút ra những bài học kinh nghiệm từ những ví dụ này.
Chương trình Polar Cap
Có hai ngân hàng đệ trình báo cáo về những hành vi đáng ngờ liên quan đến những thay đổi trong hoạt động kinh doanh của khách hàng. Hai báo cáo này cùng với một phân tích về các Báo cáo Giao dịch Tiền tệ do Sở Hải quan Mỹ tiến hành đã dẫn đến một cuộc điều tra có quy mô quốc gia. Tại một ngân hàng, một nhân viên phát hiện thấy một khách hàng, vốn là người buôn bán trang sức, đang gửi những khoản tiền mặt giá trị lớn (25 triệu đô-la trong vòng 3 tháng) không tương xứng với hoạt động kinh doanh thông thường của ông ta. Bởi vậy, ngân hàng đã nộp các CTR theo yêu cầu về những giao dịch tiền mặt trị giá hơn 10.000 đô-la trong một ngày giao dịch với khách hàng này. Ngoài ra, ngân hàng cũng thông báo cho Bộ phận Điều tra Hình sự của IRS (IRS-CID). Tại một ngân hàng khác, một nhân viên giám sát trở nên nghi ngờ khi một khách hàng, vốn là chủ một cửa hàng tạp hóa và cung cấp dịch vụ đổi tiền mặt lấy chi phiếu, ngừng việc thu hồi tiền mặt từ những chi phiếu mà ông ta gửi tại ngân hàng. Ngân hàng đã thông báo thay đổi này cho các cơ quan thi hành luật pháp. Hai ngân hàng báo cáo về hành vi đáng ngờ này đã góp phần phát hiện và phá vỡ một chương trình rửa tiền với số lượng 1,2 tỷ đô-la trong hai năm. Hơn 127 người đã bị bắt giữ, một ngân hàng nước ngoài bị kết tội và một tấn cocain bị tịch thu. Kết quả của vụ việc này là rất nhiều người bị kết án.
Chương trình C-Chase
Một ngân hàng đặt tại Luxembourg, hai chi nhánh của ngân hàng này, chín quan chức ngân hàng và 75 người khác tại một số quốc gia đã bị kết tội là dính líu vào vào một chương trình rửa tiền toàn cầu. Rất nhiều trường hợp bị kết án. Chương trình rửa tiền này được tiến hành như sau: những kẻ đồng lõa với bọn rửa tiền nhận tiền mặt từ các hoạt động buôn bán ma túy tại các thành phố trên toàn nước Mỹ, và sau đó gửi tiền vào những tài khoản bí mật tại một ngân hàng của Mỹ thông qua hình thức chuyển ngân hoặc chở tiền mặt. Những kẻ đồng lõa ký vào các tấm séc khống rút ra từ các tài khoản bí mật. Sau mỗi lần nhận tiền mặt, kẻ cầm đầu chương trình rửa tiền sẽ nhập số tiền đó vào một trong những tấm séc khống, và sau đó chuyển séc đến chủ sở hữu số tiền hoặc bán ra chợ đen. Khi chương trình này được mở rộng, kẻ cầm đầu việc rửa tiền phát triển thêm một số biến thể khác của quy trình này. Một số ngân quỹ từ tài khoản bí mật được chuyển đến những tài khoản tương tự ở một ngân hàng Trung Mỹ nhằm ngụy trang hơn nữa nguồn gốc thực sự của chúng. Những khoản khác được chuyển đến một ngân hàng nước ngoài thông qua một ngân hàng khác ở Mỹ. Trong cả hai trường hợp, các khoản tiền chuyển đến ngân hàng nước ngoài đều có chứng từ tiền gửi trong vòng 90 ngày và được dùng làm ký quỹ cho các khoản vay mà ngân hàng ở Trung Mỹ tiến hành với những kẻ đồng lõa. Số tiền kiếm được từ khoản vay sau đó được gửi vào các tài khoản trong ngân hàng và được chuyển đi thông qua một quy trình như trên. Vào một thời điểm sau đó, những ngân quỹ được chuyển thông qua hai ngân hàng nước ngoài đã được sử dụng để mua các chứng từ tiền gửi tại ngân hàng nước ngoài thứ hai. Sau đó, những chứng từ này lại được sử dụng làm ký quỹ cho các khoản vay được thực hiện tại một ngân hàng nươc ngoài thứ ba, và số tiền kiếm được từ hoạt động này lại được chuyển về tài khoản bí mật tại các ngân hàng của Mỹ, và từ đó lại được chuyển tiếp đến tài khoản của ông chủ ở Nam Mỹ. trọng. Họ cảnh báo những người tham gia vào các giao dịch phải kết hợp nhiều phương thức khác nhau để tránh tạo ra một mô thức chung. Họ sử dụng nhiều doanh nghiệp hợp pháp, kể cả khách sạn và ngân hàng, để chuyển ngân quỹ đến những tài khoản bí mật. Mạng lưới này đã đưa vào lưu thông 10 triệu đô-la hàng tháng kiếm được từ buôn bán ma túy.
Ngân hàng Tín dụng và Thương mại
Quốc tế (BCCI)
Ngân hàng Tín dụng và Thương mại Quốc tế được thành lập vào thập niên 1970s. Vào thập niên 1980s, ngân hàng nổi tiếng là một trong những định chế tài chính tư nhân lớn nhất thế giới, hoạt động kinh doanh trên 70 nước. Trong thời gian hoạt động của BCCI, người ta phát hiện thấy nhân viên của ngân hàng này dính líu vào nhiều hoạt động phạm pháp, kể cả rửa tiền. BCCI lâm vào khó khăn tài chính vào thập niên 1970 bởi vì các khoản vay có vấn đề liên quan đến vận tải biển. Tuy nhiên, bằng những mánh khóe tinh vi, BCCI chuyển qua chuyển lại tài sản có và tài sản nợ giữa các chi nhánh của ngân hàng, tạo ra hình ảnh giả tạo là một định chế tài chính hùng mạnh về vốn. Các cuộc điều tra đã được tiến hành và năm 1991, cơ quan luật pháp tại bảy quốc gia quyết định đình chỉ hoạt động của BCCI. Trường hợp của BCCI cho thấy một số vấn đề quan trọng đối với các tổ chức tài chính, đó là: các tổ chức tài chính phải cẩn trọng trong việc tìm hiểu cách thức kinh doanh của những công ty khác mà họ đang tiến hành giao dịch. Họ cần nghiên cứu và thẩm tra cẩn thận những khách hàng và cổ đông lớn tiềm năng, chú ý đến chất lượng và phạm vi giám sát đối với các công ty nước ngoài ngay tại nước của họ, và nhận thức rằng những điều luật về tịch thu tài sản đặt các tổ chức/công ty trước nguy cơ bị phong tỏa hoặc tịch thu tài sản, kể cả tài khoản ngân hàng, các khoản chuyển ngân và những chứng từ chưa thanh toán.
Chương trình Green Ice
Các cơ quan thực thi pháp luật của tám quốc gia đã hợp tác điều tra một chương trình rửa tiền nghiêm trọng có tên gọi là Chương trình Green Ice. Kết quả là 167 người bị bắt giữ và 54 triệu đô-la tiền mặt và những tài sản khác bị tịch thu. Một số quan chức tài chính cao cấp của các tập đoàn cocain bị bắt giữ và cuối cùng bị kết tội. Các tài khoản tại nhiều ngân hàng trên toàn thế giới bị phong tỏa sau khi nhận được những khoản chuyển ngân và tiền gửi bằng tiền mặt của ngân quỹ bất hợp pháp. Tại Mỹ, các tài khoản ngân hàng bị phong tỏa và tịch thu ở San Diego, Los Angeles, Chicago, Houston, Miami và New York. Những ngân hàng Mỹ nhận các khoản tiền gửi trong vụ này đã hợp tác với nhân viên của Cơ quan Thi hành Pháp luật về Ma túy, và tiếp tục đệ trình các CTR chi tiết, trong đó cung cấp thêm các bằng chứng. Những ngân hàng trung gian với khả năng tiếp cận thông tin hạn chế hơn và do đó, nguy cơ bị lợi dụng để phục vụ chương trình rửa tiền cũng cao hơn. Trường hợp này cho thấy các tổ chức tài chính phải ý thức rõ về những rủi ro này và bảo vệ bản thân bằng cách chú ý đến những giao dịch chuyển ngân thường xuyên với khối lượng tiền lớn đến những người hoặc tài khoản tại các quốc gia cung cấp ma túy. Trong nhiều năm qua, Quốc hội đã thông qua nhiều đạo luật để chống lại nạn rửa tiền. Những đạo luật quan trọng nhất trong số này bao gồm Đạo luật Bảo mật Ngân hàng năm 1970, Đạo luật Kiểm soát Rửa tiền năm 1986, Đạo luật Chống Lạm dụng Ma túy năm 1988, Đạo luật Annunzio- Wylie năm 1992, Đạo luật Ngăn chặn Rửa tiền năm 1994, Đạo luật về Chiến lược chống Rửa tiền và các Tội phạm Tài chính năm 1998 và Đạo luật Ái quốc Hoa Kỳ năm 2001. The Đạo luật Bảo mật Ngân hàng năm 1970 (P.L. 91-508) nhằm mục đích:
Đạo luật Kiểm soát Rửa tiền năm 1986 (P.L. 99-570), là một bộ phận của Đạo luật Chống Lạm dụng Ma túy năm 1986, quy định rửa tiền là hành vi tội phạm liên bang. Đạo luật này quy định ba tội phạm hình sự mới về các hoạt động rửa tiền thông qua một tổ chức tài chính, do một tổ chức tài chính tiến hành hoặc chuyển đến một tổ chức tài chính. Ba tội phạm hình sự này bao gồm:
Đạo luật Chống Lạm dụng Ma túy năm 1988 (P.L. 100-690) tăng cường các nỗ lực chống rửa tiền thông qua một số biện pháp. Đạo luật này:
Đạo luật Chống Rửa tiền Annunzio- Wylie năm 1992 (P.L. 102-550) gia tăng các hình phạt đối với những tổ chức tài chính bị phát hiện là phạm tội rửa tiền. Đạo luật Annunzio-Wylie yêu cầu Bộ trưởng Tài chính Mỹ:
Đạo luật Annunzio-Wylie cũng cho phép Bộ trưởng Tài chính Mỹ:
Ngoài ra, Đạo luật Annunzio-Wylie:
Đạo luật Ngăn chặn Rửa tiền (MLSA) năm 1994 (P.L. 103-325) cung cấp các quy định cụ thể về MSB. MLSA:
Đạo luật về Chiến lược chống Rửa tiền và các Tội phạm Tài chính năm 1998 (P.L. 105-310) yêu cầu:
Đạo luật Ái quốc Hoa Kỳ năm 2001 (P.L. 107-56), là Đạo luật Thống nhất và Củng cố nước Mỹ bằng cách Cung cấp những Phương tiện Phù hợp Cần thiết để Ngăn chặn Khủng bố năm 2001. Đạo luật này yêu cầu:
Mỹ không phải là quốc gia duy nhất trong cuộc chiến chống lại các tội phạm tài chính. Nhiều quốc gia khác cũng đã ban hành các văn bản pháp luật quan trọng về chống rửa tiền. Ngoài ra, một số tổ chức quốc tế và khu vực đã thông qua các nguyên tắc và quy định về chống rửa tiền. Ủy ban Basel Ủy ban Basel bao gồm đại diện từ các ngân hàng trung ương và cơ quan giám sát của Bỉ, Canada, Pháp, Đức, Italia, Nhật bản, Luxembourg, Hà Lan, Tây Ban Nha, Thụy Điển, Thụy Sỹ, Vương quốc Anh và My. Năm 1988, Ủy ban Basel ban hành “Tuyên bố Nguyên tắc” về chống rửa tiền, trong đó đề nghị các tổ chức tài chính xác định đúng căn cước của khách hàng và tuân thủ những quy định pháp luật về giao dịch tài chính. Liên Hợp Quốc (UN) Công ước Liên Hợp Quốc về Chống Vận chuyển Trái phép Ma túy và các Chất An thần (Công ước Vienna) kêu gọi các nước tham gia công ước hình sự hoá tội phạm rửa tiền, bảo đảm rằng bảo mật ngân hàng không phải là rào cản đối với các điều tra hình sự, và khuyến khích việc dỡ bỏ những cản trở pháp lý đối với việc điều tra, truy tố và hợp tác quốc tế trong lĩnh vực này.
Nhóm Đặc trách Hành FATF được thành lập tại Hội nghị Thượng đỉnh Kinh tế của các nước công nghiệp chủ yếu vào năm 1989. Nhóm này đã phát hành một báo cáo trong đó đưa ra 40 khuyến nghị trên tinh thần của Công ước Vienna về triển khai và phối hợp các quy định pháp luật về chống rửa tiền giữa các nước thành viên. Những khuyến nghị này là cơ sở cho các quy tắc và quy định về chống rửa tiền của Nhóm Đặc trách Hành động Tài chính Caribê và Tổ chức các Quốc gia Châu Mỹ. Một báo cáo khác của FATF về những quốc gia và lãnh thổ không hợp tác trong đó xác định những quốc gia có các quy định và hành động tiêu cực, cản trở các nỗ lực hợp tác quốc tế trong cuộc chiến chống lại nạn rửa tiền. Liên minh Châu Âu (EU) Năm 1991, EU ban hành một sắc lệnh về rửa tiền, phù hợp với 40 khuyến nghị ban đầu của FATF. Sắc lệnh này yêu cầu báo cáo bắt buộc về những giao dịch đáng ngờ và xác định căn cước của những chủ công ty và khách hàng được lợi từ các tài khoản và giao dịch tài chính. Hiệp hội Egmont Group Egmont Group là một hiệp hội toàn cầu với hơn 100 cơ quan tình báo tài chính, trung tâm quốc gia có chức năng thu thập thông tin về những hoạt động tài chính đáng ngờ hoặc bất thường trong lĩnh vực tài chính, phân tích và cung cấp dữ liệu cho các cơ quan quốc gia và các cơ quan tài chính tình báo để ngăn chặn việc tài trợ cho bọn khủng bố và các tội phạm tài chính khác. Hiệp hội lấy tên của một cung điện tại Brussels, nơi mà 15 cơ quan tình báo tài chính đầu tiên nhóm họp vào năm 1995 để thành lập một tổ chức phi chính thức về chia sẻ thông tin liên quan đến rửa tiền. Mạng lưới Thi hành Pháp luật về Tội phạm Tài chính (FinCEN) đóng một vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ các quốc gia xây dựng các cơ quan tình báo tài chính và hỗ trợ những cơ quan này tăng cường các chính sách và chương trình chống tài trợ cho bọn khủng bố và chống rửa tiền. FinCEN cũng bảo trợ cho các cơ quan tình báo tài chính mới xin gia nhập hiệp hội Egmont Group và cung cấp một hệ thống web bảo mật để các thành viên của Egmont có thể trao đổi thông tin. Ngoài ra, FinCEN còn là đại diện tích cực trong Uỷ ban Egmont có chức năng điều phối các hoạt động của Egmont Group và trong cả năm nhóm công tác của Egmont về các lĩnh vực: Pháp lý, Mở rộng Phạm vi, Đào tạo, Điều hành và Công nghệ Thông tin. Tài liệu Cảnh báo của FinCEN FinCEN đã phát hành các tài liệu cảnh báo quốc gia, trong đó kêu gọi tăng cường kiểm soát các giao dịch tài chính với những nước yếu kém trong việc kiểm soát nạn rửa tiền. Bạn có thể xem những tài liệu này tại địa chỉ www.fincen.gov, mục Publications/Advisories.
Danh sách của Văn phòng Quản Văn phòng Quản lý Tài sản Nước ngoài (OFAC) thuộc Bộ Tài chính Mỹ ban hành Danh sách những Kiều dân bị Chỉ định Đặc biệt và Tổ chức bị Phong tỏa (Danh sách SDN). Các quy định của OFAC yêu cầu doanh nghiệp phải xác định và phong tỏa tài sản của những quốc gia bị chỉ định, bọn khủng bố, các tập đoàn ma túy và những cá nhân bị chỉ định đặc biệt. Để xem các danh sách này cũng như các hướng dẫn về những điều mà doanh nghiệp nên hoặc không nên làm theo quy định của OFAC, hãy truy cập trang web của OFAC tại địa chỉ: www.treas.gov/offices/enforcement/ofac/.
Đại lý
Tính Tổng
Chi nhánh
Công ty phát hành
Rửa tiền
Công ty Dịch vụ Tiền tệ (MSB)
-VÀ-
HOẶC
Người chuyển tiền
Công ty mua lại
Biện pháp cơ cấu lại Những ví dụ về biện pháp cơ cấu lại
1. Một người phân chia một giao dịch lớn
thành hai hoặc nhiều giao dịch nhỏ hơn —
2. Một giao dịch lớn được chia thành
hai hoặc nhiều giao dịch nhỏ hơn do hai
hoặc nhiều người tiến hành —
Yêu cầu Cung cấp thêm Thông tin
Mẫu đơn của BSA
Tải xuống:
Điện thoại:
Thông tin và Tài liệu
Hướng dẫn MSB miễn phí
Trang web về MSB: www.msb.gov
Trả lời Câu hỏi về Điền
các Mẫu đơn của BSA
Trung tâm Tin học Detroit - IRS
Giải thích các Quy định của BSA
Mạng lưới Thi hành Luật pháp về
Báo cáo về Hoạt động Tài chính
Liên quan đến Khủng bố
Đường dây nóng về các Tổ chức
Tài chính
Mạng lưới Thi hành Luật
Ấn phẩm của Mạng lưới Thi hành Luật pháp về Tội phạm Tài chính (FinCEN) |