Khái quát về địa lý Mỹ
Chương 17: Hawaii
Chương trình Thông tin Quốc tế, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, năm 1998
Quần đảo Hawaii là một
chuỗi các đảo và vỉa đá ngầm với chiều dài 3.300 km, định vị trên một
diện tích rộng lớn giữa Thái Bình Dương. Quần đảo này bắt đầu từ phía
đông với đảo Hawaii và kết thúc gần như tại đường múi giờ quốc tế với
một chấm nhỏ trên bản đồ có tên gọi Kure Atoll (bản đồ 16). Phần xa nhất
về phía đông 650 km của bang này bao gồm các hòn đảo với nhiều kích
thước khác nhau và hầu hết dân số của bang. Đây là khu vực thường được
người ta coi là “Hawaii” thực sự. Tám đảo chính của Hawaii là
Oahu, Hawaii, Maui, Kauai, Lanai, Molokai, Niihau và Kahoolawe chiếm tới
hơn 99% diện tích đất của bang này, và toàn bộ chứ không chỉ một nhóm
dân số của bang. Đảo Hawaii với diện tích 8.150 km2 chiếm tới gần hai
phần ba tổng số diện tích của bang và thường được gọi một cách đơn giản
là Đảo Lớn (Big Island). Nhỏ nhất trong số tám đảo là Kahoolawe với diện
tích 125 km2 và không có cư dân sinh sống. Vị trí và
những đặc điểm tự nhiên Hawaii nằm gần chính giữa Thái
Bình Dương. Honolulu - thủ phủ của bang - cách San Francisco thuộc
California về phía tây 3.850 km, cách Tokyo (Nhật Bản) về phía đông
6.500 km và cách bờ biển Australia về phía đông bắc khoảng 7.300 km. Đây
là nơi có thể được xem là một trường hợp biệt lập hoàn toàn và điều này
dường như vẫn đúng cho đến cách đây vài thế kỷ. Nhưng khi những quốc
gia xung quanh Thái Bình Dương bắt đầu liên lạc với nhau thường xuyên
hơn và sử dụng những nguồn tài nguyên của đại dương nhiều hơn, thì những
hòn đảo này đã trở thành trung tâm quan trọng của giao lưu. Chuỗi
đảo Hawaii chỉ là một phần lộ thiên của một loạt những núi lửa lớn. Đáy
biển ở khu vực này sâu khoảng 4.000 đến 5.000 mét. Như vậy, để một núi
lửa có thể nhô lên mặt nước thì ngọn núi cần phải đạt đến chiều cao 5
km. Hoạt động núi lửa từng tạo ra các đảo này ngày nay vẫn đang
tiếp diễn ở đó nhưng chủ yếu không phải dưới dạng bùng nổ với những mảng
nham thạch bị ném đi với khoảng cách rất xa, mà từ những miệng núi lửa
sự phun trào vẫn còn tồn tại trên các đảo này. Diamond Head, cột mốc của
Honolulu, là miệng núi lửa lớn nhất với độ lớn khoảng 240 m. Tuy nhiên,
đặc điểm phổ biến hơn là sự hình thành một cách dần dần dạng vật chất
như là một chuỗi các dòng nham thạch hết lớp này đến lớp khác. Hình dạng
thường thấy của các núi lửa hình thành theo cách này là những dạng mái
vòm với đặc điểm chính là những sườn thoải gợn sóng chứ không phải là
những vách đá dựng đứng. Nhiều ngọn núi lửa trên Đảo Lớn (Big
Island) vẫn còn hoạt động. Ngọn Mauna Loa thường phun ra những dòng nham
thạch trung bình bốn năm một lần và hoạt động của núi lửa là mối đe dọa
thường xuyên đối với Hilo, thị trấn lớn nhất của đảo. Đợt phun trào vào
năm 1950 đã trùm lên một diện tích khoảng 100 km2. Một núi lửa khác là
Kilauea cũng thường xuyên hoạt động nhưng dòng nham thạch của nó chỉ
trào ra với chu kỳ 7 năm một lần. Năm 1960, dòng nham thạch từ Kilauea
đã bao phủ 10 km2, làm cho kích thước của đảo tăng thêm khoảng 260
hecta. Hawaii là một bang có địa hình nhấp nhô và những thay đổi
bất ngờ về độ cao so với mặt nước biển. Đây chính là kết quả xói mòn gây
ra bởi sự vận động của nước đối với bề mặt của núi lửa. Những vách đá
nhô lên trên mặt biển do các con sóng cắt gọt, đã tạo nên những đường
viền ngoạn mục bao quanh một phần các đảo. Những vách đá như thế ở bờ
biển phía đông bắc của Molokai có độ cao 1.150 m trên mực nước biển và
là một trong những vách đá cao nhất trên thế giới, những vách đá khác
tại Kauai cũng vượt quá 600 m. Một số dòng suối nhỏ phía đông bắc của
Big Island đổ vào những vách đá ấy rồi rơi xuống biển. Tác động
xói mòn của dòng suối đã cắt xé nhiều bề mặt nham thạch. Những khe núi
tạo thành nhiều mái vòm. Tại Kauai, đáy của Khe Waimea nằm thấp hơn bề
mặt của vùng đất bao quanh hơn 800 m. Những thác nước cao hàng trăm mét
cũng phổ biến trên các hòn đảo này. Thác Pali ở Oahu là một tuyến vách
đá, nơi gặp nhau của các nhánh suối chảy về từ những phía khác nhau của
hòn đảo. Những dòng chảy về phía đông này đã ăn mòn những dải núi phân
cách chúng và cắt ngang các vùng đất thấp rộng lớn, những thung lũng
quay mặt về phía tây thường cao hơn và vẫn bị phân tách bởi những dải
núi hẹp. Một trong những hậu quả quan trọng của hoạt động ăn mòn
mạnh mẽ này là có rất ít vùng đất bằng phẳng trên các đảo. Kauai đặc
biệt gồ ghề, chỉ có những vùng đất thấp hình thành một rìa đất mỏng ven
biển. Đảo Maui có một phần đất hẹp và bằng phẳng ngay chính giữa, chia
đôi hai phần núi. Molokai khá bằng phẳng ở phần đất phía tây. Oahu có
một thung lũng trung tâm lớn cộng với những vùng đất thấp khá rộng ven
biển. Đảo Hawaii chỉ có một vài bình nguyên nham thạch ven biển rất hẹp. Vị
trí nằm giữa đại dương của Hawaii rõ ràng có ảnh hưởng rất lớn đến khí
hậu trong vùng. Chính đại dương đã làm cho những ngọn gió thổi vào những
ngọn núi của các hòn đảo thấm đẫm hơi nước. Biển cũng điều hòa nhiệt độ
trên các đảo - nhiệt độ cao nhất của Honolulu là 310C và thấp nhất chỉ
là 130C. Honolulu ở vào khoảng 200 vĩ bắc, cùng vĩ độ với Calcutta
và Thành phố Mexico. Vì vậy, ở đây ít có sự thay đổi về độ dài của ngày
và góc tới của tia nắng mặt trời giữa mùa này so với mùa khác. Yếu tố
này, cộng với vị trí nằm giữa biển của bang khiến cho nó có rất ít sự
khác biệt về nhiệt độ giữa các mùa. Chính sự khác biệt về lượng
mưa đã đánh dấu những thay đổi lớn về mùa trên những hòn đảo. Trong mùa
hè, Hawaii chịu ảnh hưởng lâu dài của những gió mậu dịch đông bắc thổi
tới các hòn đảo đi qua các vùng nước mát phân bổ ở phía đông bắc và tạo
ra thời tiết đặc trưng của Hawaii - gió, nắng với đôi chút mây, ấm áp
chứ không nóng. Vào mùa đông, những cơn gió mậu dịch này biến mất, đôi
khi tới hàng tuần, cho phép có sự “xâm lược“ của những cơn bão từ phía
bắc và tây bắc. Honolulu nhận được lượng mưa tới khoảng 43 cm trong vòng
24 giờ. Các trạm dự báo thời tiết tại Hawaii đã ghi nhận được lượng mưa
28 cm trong một giờ và 100 cm trong một ngày, cả hai mức đều gần với kỷ
lục thế giới. Địa hình của các đảo tạo ra sự khác biệt rõ ràng về
lượng mưa giữa khu vực này với khu vực khác. Mount Waialeale trên đảo
Kauai nhận được lượng mưa 1.234 cm hàng năm, khiến cho vùng này trở
thành một trong những điểm ẩm ướt nhất trên thế giới, và Waimea, cũng
trên đảo Kauai, chỉ nhận được khoảng 50 cm lượng mưa hàng năm - mà hai
khu vực này chỉ cách nhau có 25 km. Tại vùng trung tâm đô thị Honolulu,
người ta có thể sống ven các bãi biển trong khí hậu hơi khô với lượng
mưa ít hơn 50 cm hàng năm, hoặc trong đất liền gần Pali, trên bìa mép
của một khu rừng mưa, với lượng mưa nhiệt đới 300 cm hàng năm. Không
giống như vùng Pacific Northwest, lượng mưa lớn nhất trên những ngọn núi
cao của Hawaii lại xảy ra ở về mặt thấp, thường vào khoảng 600 đến
1.200 mét. Phần lớn đất núi lửa đều là đất dễ thấm. Tình trạng này
khiến cho nước thẩm thấu rất nhanh chóng, đến mức nhiều loài cây không
thể hút được. Vì vậy, nhiều vùng có lượng mưa vừa phải cho tới thấp có
bề mặt rất khô hạn. Sự biệt lập của những hòn đảo thuộc Hawaii,
cùng với khí hậu nói chung và những khác biệt rất lớn về môi trường đã
tạo ra một cộng đồng các loài chim và thực vật rất phong phú. Có đến vài
ngàn loài thực vật bản địa sống ở đây và không hề thấy có trong tự
nhiên ở bất kỳ nơi nào khác, 66 loài chim đất liền duy nhất chỉ sống tại
Hawaii cũng đã được xác định. Điều lý thú là trước khi con người đặt
chân đến không hề có một loài động vật có vú trên cạn nào sống trên các
đảo ở đây. Sự hình thành dân số trên đảo Quá
trình định cư của người Polynesian trên quần đảo Hawaii là một phần của
một trong những giai đoạn vượt biển mạo hiểm nhất của loài người. Nhóm
người này khởi hành với những chuyến đi biển kế tiếp nhau trên những
chiếc thuyền không mui xuyên qua những vùng đại dương rộng lớn phân cách
những cụm đảo nhỏ. Ví dụ, người ta cho rằng những người đến định cư tại
Hawaii 1.000 năm trước đây đã xuất phát từ Marquesas, cách khoảng 4.000
km về phía tây nam. Có một số loại dân được coi là tiền Polynesian sinh
sống trên đảo nhưng có lẽ họ đã bị những người mới đến đồng hoá. Làn
sóng người Polynesian di cư đáng kể thứ hai đến quần đảo này vào khoảng
500 hoặc 600 năm trước đây. Những nỗ lực to lớn mà những chuyến
vượt biển như vậy đòi hỏi rõ ràng đã trở nên quá ghê gớm. Kết quả là,
Hawaii phải mất hàng trăm năm bị tách biệt với thế giới sau thời kỳ di
cư thứ hai này. Trong suốt thời kỳ biệt lập này, người Hawaii đã củng cố
một cơ cấu tổ chức xã hội phức tạp trên những hòn đảo thiên đường của
mình. Những kẻ thống trị cha truyền con nối nắm giữ quyền kiểm soát
tuyệt đối đối với toàn bộ dân cư và sở hữu mọi vùng đất trên đảo. Vào
cuối thế kỷ thứ 18, khi những người châu Âu phát hiện ra các đảo này,
môi trường khí hậu ôn hòa ở đây đã giúp cho dân số tăng lên tới khoảng
300.000 người. Vào năm 1778, người châu Âu đầu tiên đến quần đảo
Hawaii, mà ông gọi đùa là đảo Sandwich, là thuyền trưởng James Cook.
Thuyền trưởng Cook đã bị giết chết ngay trên bờ biển của Big Island,
nhưng những tin tức về phát hiện của ông đã nhanh chóng lan rộng khi
được truyền về tới châu Âu và Bắc Mỹ; người ta nhanh chóng nhận ra rằng
những hòn đảo này là những vị trí tốt nhất để đặt những trạm trung
chuyển trên con đường khai thác sự phát triển thương mại giữa Bắc Mỹ và
châu á. Vào những năm 1820, ngành công nghiệp đánh bắt cá voi
chuyển về Bắc Thái Bình Dương và trong nửa thế kỷ tiếp theo những hòn
đảo này trở thành trung tâm chính phục vụ việc nghỉ ngơi và tái cung cấp
cho những người đánh bắt cá voi. Trong cùng thời gian, những nhà truyền
giáo đạo Tin lành cũng tới Hawaii. Cũng giống như những người đánh bắt
cá voi, họ đều tới từ Đông Bắc Hoa Kỳ. Những nhà truyền giáo này đã rất
thành công trong sự nghiệp truyền đạo và gây một ảnh hưởng rất lớn đối
với dân cư trên đảo. Đồn điền sản xuất mía đường đầu tiên của
Hawaii được thiết lập vào năm 1837 mặc dù cho tới giữa thế kỷ hòn đảo
này còn chưa trở thành một nơi sản xuất đường đáng kể. Kể từ đó cho đến
cuối thế kỷ XIX, Hawaii đã vươn lên thành một trong những nơi xuất khẩu
đường lớn trên thế giới. Sự phát triển này dẫn đến một nhu cầu về
lao động nông nghiệp. Những người Hawaii bản xứ được sử dụng cho mục
đích này trong một thời gian, nhưng do số dân này ngày càng giảm đã
không cung cấp được lượng lao động cần thiết. Vì vậy, từ năm 1852 cho
tới năm 1930, các chủ sở hữu đồn điền mía đường đã đưa 400.000 lao động
nông nghiệp, chủ yếu là người châu á đến Hawaii. Vào năm 1852, những thổ
dân Hawaii chiếm 95% dân số của các hòn đảo. Đến năm 1900, họ chỉ còn
150.000 người, chưa tới 15% dân số trong khi 75% dân số còn lại là người
phương Đông. Sau năm 1930, Hoa Kỳ lục địa trở thành nguồn cung
cấp chủ yếu những cư dân mới cho Hawaii. Vào năm 1910, cứ 5 cư dân ở
Hawaii thì có một người gốc châu Âu (tiếng Hawaii gọi là Caucasian –
người da trắng). Ngày nay, gần 40% dân số của bang là Caucasian hoặc một
phần Caucasian. Trước khi người châu Âu đặt chân đến, dân số của
Hawaii đã hạ xuống mức thấp nhất là 54.000 người vào năm 1876, rồi lại
bắt đầu tăng lên. Vào đầu những năm 1920, dân số của bang đã đạt đến mức
trước khi người châu Âu tới và vào năm 1988, bang có 1,1 triệu cư dân.
Do tình trạng nhập cư, tốc độ tăng trưởng dân số hàng năm của Hawaii cao
hơn nhiều so với mức trung bình của Hoa Kỳ. Dân cư thời kỳ trước
khi người châu Âu đến định cư tại Hawaii được phân bố rộng khắp trên các
đảo, với Big Island chiếm số dân đông nhất. Kể từ khi người châu Âu
phát hiện ra, dân số của Hawaii tập trung ngày càng nhiều tại Oahu.
Honolulu do có hải cảng đã trở thành thành phố cảng chính của Hawaii. Lịch
sử chính trị của Hawaii bị xáo trộn trong suốt 120 năm sau phát hiện
của Cook. Những vương quốc trên quần đảo bị xoá bỏ bởi một người đứng
đầu hùng mạnh là Kamehameha vào giữa những năm 1785 và 1795. ảnh hưởng
ngày càng tăng của những nhà truyền giáo dần dần đã làm mất đi quyền lực
của những nhà thống trị người gốc Hawaii và trong suốt thế kỷ XIX,
những nhóm lợi ích chính trị của châu Âu đã đến đây để cạnh tranh thay
thế vào chỗ này. Nhưng vai trò ngày càng tăng của người Mỹ đã dẫn
đến một tình thế tất yếu là nếu Hawaii mất đi sự độc lập về chính trị
thì quần đảo này có thể được sáp nhập vào Hoa Kỳ. Những chủ đồn điền
người Mỹ ngày càng tăng về số lượng cũng như về ảnh hưởng, đồng thời sự
bất mãn của họ với Chính phủ Hawaii cũng tăng lên. Vào năm 1887, họ buộc
chế độ quân chủ phải chấp nhận một chính phủ bầu cử do các chủ đồn điền
kiểm soát. Nền quân chủ này bị lật đổ hoàn toàn vào năm 1893 và chính
phủ mới ngay lập tức được yêu cầu sáp nhập vào Hoa Kỳ. Thoạt tiên họ từ
chối nhưng cuối cùng đã chấp thuận trở thành một phần lãnh thổ của Mỹ
vào năm 1898. Vào thời điểm sáp nhập, không có điều khoản nào được
đưa ra về việc Hawaii sẽ trở thành một bang của Mỹ, và mãi cho tới năm
1959, sau khi Alaska được chấp nhận vào liên bang, Hawaii mới trở thành
bang thứ 50 của Hoa Kỳ. Nền kinh tế Hawaii Gần
một nửa đất đai của Hawaii thuộc về sở hữu của Chính quyền. Chính quyền
bang chứ không phải là Liên bang sở hữu tới 80% đất đó. Hầu hết đó là
đất ít thích hợp cho canh tác và là đất rừng cũng như các khu vực bảo
tồn. Đất của chính quyền liên bang chủ yếu tập trung tại các công viên
quốc gia tại Big Island và Mauri hoặc các căn cứ quân sự tại Oahu và
Kahoolawe. Bảy phần tám đất thuộc sở hữu tư nhân tại Hawaii tập
trung trong tay 39 chủ sở hữu đất, mỗi người có khoảng 2.000 hecta hoặc
hơn. Sáu chủ đất khác, mỗi người kiểm soát hơn 40.000 hecta trong tổng
diện tích 1.040.000 hecta toàn bang. Sở hữu đất tư nhân với những đơn vị
nhỏ hơn phổ biến nhất ở Oahu, nhưng ở đây những chủ đất lớn hơn cũng
kiểm soát tới hơn 2/3 đất tư nhân. Hai trong số các đảo là Lanai và
Niihau, mỗi đảo hầu như hoàn toàn do một chủ đất duy nhất quản lý, và
tất cả các đảo khác (trừ Oahu) những chủ đất lớn đều kiểm soát tới 90%
đất tư nhân. Hầu hết những ruộng đất tư nhân lớn này đều được
thiết lập trong thời kỳ khai thác tự do trên quần đảo vào thế kỷ XIX.
Trước đây đất đai hoàn toàn thuộc quyền sở hữu của các nền quân chủ. Đất
được chuyển sang tay những chủ sở hữu tư nhân không phải là người
Hawaii trong thời kỳ sa sút về chính trị của chế độ quân chủ. Cùng với
cái chết của nhiều chủ đất cũ, hầu hết các ruộng đất tư nhân đều được
tín thác quản trị chứ không chuyển trực tiếp cho những người thừa kế.
Điều này khiến cho người ta rất khó phá bỏ các hình mẫu sở hữu, vì vậy
giá đất cao và mật độ dân số cao. Mía đường và sau đó là dứa đã là
động lực thúc đẩy nền kinh tế Hawaii trong nhiều thập kỷ sau những năm
1860. Nền kinh tế vẫn chủ yếu là nông nghiệp cho tới cuối những năm
1940. Trong những thập kỷ gần đây, nông nghiệp vẫn tiếp tục cho thấy
những mức thu nhập khiêm tốn, nhưng tầm quan trọng của nó đã suy giảm.
Gần đây, chỉ có 1 trong số 30 người dân Hawaii làm nghề nông. Tuy
nhiên, Hawaii tiếp tục cung cấp một phần đáng kể sản lượng đường trên
thế giới, sản lượng dứa của bang này cũng đạt khoảng 650.000 tấn hàng
năm, khiến nơi đây trở thành nhà cung cấp dứa lớn nhất trên thế giới. Những
con số thống kê kinh tế tổng hợp đặc biệt nhấn mạnh vai trò của Oahu,
nơi tập trung hơn 80% nền kinh tế của bang. Vai trò của nông nghiệp vẫn
còn lớn đối với các đảo khác. Cả Lanai và Molokai đều có mức thu nhập và
công ăn việc làm phụ thuộc vào sản xuất dứa. Gia súc và mía đường đã
hình thành nên xương sống của nền kinh tế trên Big Island, đối với các
đảo Maui và Kauai thì mía đường và dứa cũng có vai trò tương tự như vậy. Do
nông nghiệp suy giảm và mất đi vị thế thống trị trong nền kinh tế
Hawaii, vị trí của nó trước tiên được chính phủ liên bang tiếp quản.
Trong nhiều thập kỷ gần đây, chi tiêu của chính phủ đã tăng theo tỷ lệ
tương đương với mức tăng trưởng của toàn bộ nền kinh tế, duy trì ở mức
1/3 tổng chi phí. Phần lớn những chi phí này là cho quân đội, người kiểm
soát 25% Oahu, kể cả vùng đất xung quanh Trân Châu cảng, một trong
những hải cảng tự nhiên tốt nhất tại Thái Bình Dương. Gần như là cứ 4
người dân Hawaii thì có một người làm việc trong quân đội, và số người
phục vụ trong quân đội và những người sống nhờ vào họ chiếm tới 10% dân
số của Hawaii. Lực lượng vũ trang sử dụng nhân công lớn nhất trong bang.
Du lịch là một ngành lớn ở Hawaii với con số hơn 4,5 triệu du
khách tới bang này mỗi năm. Du lịch đã trở thành khu vực tăng trưởng chủ
yếu của nền kinh tế, thu nhập từ du lịch tăng từ 4% tổng mức thu nhập
của bang vào năm 1950 lên 30% trong thời gian hiện nay. Tính
đa dạng của các đảo Các đảo chính của Hawaii là những
phần trong cùng một bang, chúng có lịch sử địa lý tương tự nhau và phân
bố rất gần nhau trên đại dương, nhưng mỗi đảo đều có đặc điểm riêng.
Oahu là hòn đảo có mật độ dân cư dầy đặc và được sử dụng với cường độ
lớn, có cảnh quan nhộn nhịp và đông đúc thường thấy ở đô thị Mỹ. Đảo
Hawaii, hay còn gọi là Big Island, so với các đảo khác thì gây ấn tượng
về một không gian và khoảng cách tương đối, với những nông trại lớn,
những núi lửa cao nằm lặng im và một miền đất trải dài hầu như không có
cỏ cây. Vùng đất này bị thống trị bởi năm ngọn núi lửa hình lá chắn
khổng lồ. Mía đường, chăn nuôi đại gia súc và du lịch là những ngành
chính ở đây. Kauai, đôi khi còn gọi là đảo vườn do có thảm thực
vật nhiệt đới lộng lẫy, bị xói mòn tạo thành một phong cảnh ngoạn mục
với những ngọn núi, khe nước, vách đá và thác nước. Kauai ngày càng trở
nên quen thuộc đối với du khách nhờ môi trường tự nhiên đặc sắc nơi đây.
Đảo Niihau gần đó là thuộc sở hữu tư nhân và được điều hành bởi Niihau
Ranch Company. Phần lớn trong số vài trăm cư dân của đảo đều là người
bản xứ Hawaii. Maui, hòn đảo lớn thứ hai trong quần đảo là sự
tương phản giữa những đồn điền của vùng đất thấp trung tâm và những dãy
núi lởm chởm bao quanh. Sự phát triển của ngành du lịch, tập trung vào
dải bờ biển phía tây, đã diễn ra rất nhanh chóng và kết quả là Maui có
tốc độ tăng trưởng dân số nhanh nhất trong số tất cả các hòn đảo trong
thời gian những năm 1970 và những năm 1980. Tuy nhiên, rất nhiều phần
còn lại của hòn đảo này hầu như không thay đổi và có mật độ dân cư thưa
thớt. Molokai có một nửa là đất trang trại, một nửa là những dãy
núi nhấp nhô. Bờ biển phía bắc của đảo này nổi bật với những vách đá ven
biển ngoạn mục cao tới 1.100 m trong khi bờ biển phía nam rộng lớn lại
hoàn toàn bằng phẳng. Có lẽ đây là nơi có mức độ phát triển kinh tế thấp
nhất trong số những hòn đảo có dân cư sinh sống của quần đảo Hawaii. Lanai
và Kahoolawe đều là vùng đất cao hơn Maui rất nhiều. Chính vì vậy mà cả
hai đều khô hạn. Cả hai đảo này đều không có một dòng suối vĩnh viễn
nào. Sản xuất dứa là ngành kinh tế duy nhất trên đảo Lanai. Hải quân Mỹ
quản lý Kahoolawe và sử dụng đảo này cho những cuộc tập trận.
Nội dung
-
- Chương 1: Các chủ đề và khu vực
- Chương 2: Môi trường tự nhiên
- Chương 3: Những nền tảng hoạt động của con người
- Chương 4: Khu siêu đô thị
- Chương 5: Vùng trọng điểm chế tạo
- Chương 6: Miền đông bị quên lãng
- Chương 7: Appalachia và Ozark
- Chương 8: Vùng cực nam
- Chương 9: Vùng đất ven biển phía nam
- Chương 10: Vùng trọng điểm nông nghiệp
- Chương 11: Vùng đồng bằng và thảo nguyên lớn
- Chương 12: Vùng đất trống trong nội địa
- Chương 13: Vùng biên giới Tây Nam
- Chương 14: California
- Chương 15: Vùng bờ biển Bắc Thái Bình Dương
- Chương 16: Vùng đất phía bắc
- Chương 17: Hawaii