Khái quát hệ thống pháp luật Hoa Kỳ
Chương 6: Thủ tục tại tòa án dân sự
Ấn phẩm của Chương trình Thông tin Quốc tế, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, năm 2004
Những
hành động dân sự là riêng biệt và tách rời khỏi việc tố tụng hình sự.
Chương này tập trung vào các tòa án dân sự: luật dân sự khác với luật
hình sự như thế nào, những hạng mục quan trọng nhất trong luật dân sự,
những biện pháp thay thế cho việc xét xử, và từng bước một xem xét thủ
tục xét xử dân sự. NỘI DUNG VÀ BẢN CHẤT CỦA LUẬT DÂN SỰ Hệ
thống pháp luật Mỹ có những khác biệt quan trọng giữa luật hình sự và
luật dân sự. Luật hình sự liên quan đến hành vi chướng tai gai mắt, mang
tính xâm hại đối với toàn thể xã hội. Luật dân sự chủ yếu gắn với bổn
phận, nghĩa vụ của từng công dân đơn lẻ với nhau. Trong các vụ án dân
sự, tranh chấp thường là giữa những cá nhân đơn lẻ, mặc dù chính quyền
đôi khi có thể là một bên trong một vụ kiện dân sự. Các vụ án hình sự
luôn liên quan đến việc chính quyền khởi tố một cá nhân vì một tội danh
đối với xã hội. Trong một vụ án dân sự, tòa án cố gắng giải quyết
một tranh chấp cụ thể giữa các bên bằng việc xác định những quyền theo
luật pháp của họ. Tòa án khi đó lựa chọn một biện pháp khắc phục thỏa
đáng như bồi thường thiệt hại bằng tiền cho bên bị thiệt hại hoặc đưa ra
yêu cầu bắt buộc một bên thực hiện hoặc không thực hiện một hành động
cụ thể. Trong một vụ án hình sự, tòa án phán quyết bị đơn là vô tội hay
có tội. Một bị đơn có tội có thể bị trừng phạt bằng hình thức phạt tiền
hay giam tù hoặc cả hai. Trong một số trường hợp hành động như
vậy có thể dẫn đến việc tố tụng hình sự và tranh kiện dân sự. Giả sử
rằng “Joe” và “Pete”, hai nhà khoa học chính trị tham dự một hội nghị ở
Atlanta, cùng đi một chuyến taxi từ sân bay về khách sạn trong thành
phố. Trong lúc ngồi trên xe họ đã có một cuộc tranh luận sôi nổi về
chính trị. Khi taxi dừng ở khách sạn, cuộc tranh luận căng thẳng đến mức
họ đã có xung đột tay chân. Nếu Pete dùng vali của mình đánh vào mạng
sườn Joe khi xuống xe thì Pete có thể bị buộc tội hành hung người khác.
Ngoài ra, Joe có thể đâm đơn kiện dân sự đối với Pete để đòi tiền bồi
thường cho chi phí y tế của anh ta. Số vụ kiện dân sự lớn hơn rất
nhiều so với số vụ kiện hình sự ở cả tòa án liên bang và bang, mặc dù
nhìn chung chúng không thu hút được nhiều sự chú ý của các phương tiện
truyền thông như các phiên tòa hình sự. Tuy vậy, chúng thường đặt ra
những vấn đề chính sách quan trọng và bao hàm hàng loạt những bất đồng
trong xã hội. Nhà nghiên cứu pháp luật Herbert Jacob tóm tắt khuôn khổ
lĩnh vực luật dân sự trong cuốn Công lý ở Mỹ (Justice in America): “Mọi
thỏa hiệp bị phá vỡ, mọi việc bán hàng không đáp ứng được khách hàng,
mọi khoản nợ không thu hồi được, mọi tranh chấp với cơ quan chính phủ,
mọi sự phỉ báng và bôi nhọ, mọi thiệt hại do tai nạn, mọi đỗ vỡ trong
hôn nhân, và mọi cái chết đều có thể dẫn đến kiện tụng dân sự”. Do
vậy, thực sự là bất kỳ tranh chấp nào giữa hai người trở lên đều có thể
tạo ra cơ sở cho một vụ kiện dân sự. Số vụ kiện là rất nhiều, nhưng
phần lớn chúng rơi vào một trong năm hạng mục cơ bản. NHỮNG
PHÂN NHÓM CHÍNH CỦA LUẬT DÂN SỰ Năm phân nhóm chính của
luật dân sự là luật hợp đồng, luật bồi thường ngoài hợp đồng (tort
law), luật sở hữu (property law), luật thừa kế và luật gia đình. Luật
hợp đồng Luật hợp đồng chủ yếu liên quan đến những thỏa
thuận tự nguyện giữa hai người trở lên. Một số ví dụ phổ biến là những
thỏa thuận thực hiện một loại công việc nào đó, để mua hoặc bán hàng
hóa, để xây dựng hay sửa chữa nhà hoặc cửa hàng. Cơ sở cho những thỏa
thuận này là cam kết của một bên và cam kết đối lại của bên kia, thường
là cam kết của một bên sẽ trả tiền cho hàng hóa và dịch vụ của bên kia.
Chẳng hạn, giả sử là “ông Burns” và “bà Colder” đạt được một thỏa thuận
theo đó bà Colder đồng ý trả cho ông Burns 125 bảng Anh nếu ông Burns
chặt và mang một lượng gỗ sồi đến nhà bà Colder vào ngày 10 tháng Mười
hai. Nếu ông Burns không giao gỗ vào ngày đó thì ông đã vi phạm hợp đồng
và bà Colder có thể kiện ông về những thiệt hại phát sinh. Mặc
dù nhiều hợp đồng là tương đối đơn giản và dễ hiểu nhưng một số lĩnh vực
phức tạp cũng xây dựng trên luật hợp đồng hay những ý tưởng hợp đồng.
Một lĩnh vực như vậy là luật thương mại, chủ yếu tập trung vào việc bán
hàng liên quan đến tín dụng hay kế hoạch trả góp. Luật thương mại cũng
bao gồm những vấn đề về séc, kỳ phiếu và những công cụ tài chính có thể
chuyển nhượng. Một lĩnh vực liên quan chặt chẽ khác là phá sản và
quyền của các chủ nợ. Những cá nhân hay doanh nghiệp bị phá sản có thể
thông qua thủ tục phá sản để giũ bỏ căn bản vết đen này, và làm lại từ
đầu. Thủ tục phá sản cũng được xây dựng để bảo đảm sự công bằng cho các
chủ nợ. Luật phá sản là mối quan tâm hàng đầu của các nhà lập pháp trong
một vài năm, và rất nhiều thẩm phán cho những vụ phá sản đặc biệt hiện
nay đã được biệt phái sang các tòa án hạt của Mỹ. Lĩnh vực cuối
cùng là hợp đồng bảo hiểm, là một lĩnh vực quan trọng do khả năng áp
dụng của đó đối với rất nhiều người. Ngành bảo hiểm do các cơ quan chính
phủ điều tiết và phụ thuộc những quy định riêng biệt của riêng ngành
này. Luật bồi thường ngoài hợp đồng Luật
bồi thường ngoài hợp đồng nhìn chung có thể được mô tả như luật về những
sai phạm dân sự. Nó liên quan đến hành vi gây ra thiệt hại và không thể
đo lường được theo một số tiêu chuẩn do xã hội đặt ra. Những
hành động để khiếu nại thiệt hại cá nhân hay thương tích cơ thể là trọng
tâm của luật bồi thường ngoài hợp đồng, và những tai nạn ô tô vốn là
nguyên nhân chính của các khiến nại thuộc loại này. Một trong những lĩnh
vực phụ phát triển nhanh nhất trong luật bồi thường ngoài hợp đồng là
trách nhiệm đối với sản phẩm. Hạng mục này đã trở thành một cách thức
ngày càng hiệu quả để buộc các công ty phải có trách nhiệm đối với những
thiệt hại do thức ăn hư hại, đồ chơi, thiết bị, ô tô, thuốc men và rất
nhiều những sản phẩm có khuyết tật khác gây ra. Có lẽ một lý do
cho sự tăng lên của những vụ án về trách nhiệm đối với sản phẩm là sự
thay đổi về chuẩn mực của chứng cứ. Theo truyền thống, sự cẩu thả
(thường được định nghĩa là sự thiếu cẩn trọng hay không thể có được sự
chú trọng bình thường, trong những hoàn cảnh cụ thể được nêu trong vụ
kiện) phải được chứng minh trước khi một người có thể được bồi thường
tổn thất do một ai đó gây ra. Tuy nhiên, một số người lập luận rằng
trong nhiều năm việc dựa vào khái niệm sự cẩu thả đã giảm đi, nhất là
trong các vụ án về trách nhiệm đối với sản phẩm. Với cương vị của mình,
tòa án thường sử dụng một tiêu chuẩn trách nhiệm nghiêm ngặt, có nghĩa
là nạn nhân có thể được bồi thường ngay cả khi không có sự thiếu cẩn
trọng và kể cả nhà sản xuất rất cẩn thận. Một lý do khác thường
được nêu ra cho sự tăng lên của những vụ án về trách nhiệm đối với sản
phẩm là mức đền bù mà bồi thẩm đoàn đưa ra trong phán quyết ủng hộ
nguyên đơn. Hình thức đền bù mà bồi thẩm đoàn đề ra cho những thiệt hại
gồm hai loại: mang tính bồi thường và mang tính trừng phạt. Những thiệt
hại mang tính đền bù là để bù đắp cho tổn thất thực tế của nguyên đơn
như chi phí sửa chữa, hóa đơn bác sĩ và những chi phí bệnh viện. Còn
những thiệt hại mang tính trừng phạt (hay để làm gương) được đặt ra để
trừng phạt bị đơn hoặc là lời cảnh báo cho hành động như vậy trong tương
lai. Do sự lo ngại về mức đền bù lớn của bồi thẩm đoàn và ngày
càng có nhiều cái gọi là những vụ án nhỏ nhặt nên các quan chức chính
phủ, các nhà điều hành doanh nghiệp, các nhóm lợi ích và các thành viên
của cộng đồng luật pháp đã kêu gọi phải cải cách ngành luật bồi thường
ngoài hợp đồng. Trong suốt những năm 1990, nhiều bang đã ban hành hàng
loạt những biện pháp cải cách bồi thường ngoài hợp đồng. Hiệp hội cải
cách bồi thường ngoài hợp đồng của Mỹ, hoạt động với tư cách là người
ủng hộ cải cách bồi thường ngoài hợp đồng, báo cáo rằng các bang đã hạn
chế mức đền bù cho những thiệt hại phi kinh tế, điều chỉnh các luật giám
sát bồi thường mang tính trừ ng phạt, hoặc ban hành những đạo luật
trừng phạt những nguyên đơn nộp hồ sơ cho những vụ kiện nhỏ nhặt. Một
lĩnh vực phụ của luật bồi thường ngoài hợp đồng đang phát triển nhanh
chóng là sai sót chữa bệnh. Số vụ khiếu nại sai sót chữa bệnh đã tăng
mạnh ngay cả khi ngành y đã có những bước tiến to lớn. Hai vấn đề đang
diễn ra trong ngành y đương thời là rủi ro tăng lên do những phương pháp
điều trị mới gây ra và đặc tính vô cảm của các chuyên gia và bệnh viện.
Ngày nay, bệnh nhân kỳ vọng rất nhiều, và khi bác sĩ không thể đáp ứng
được những kỳ vọng đó thì sự giận dữ sẽ khiến họ khiếu kiện về sai sót
chữa bệnh. Các tòa án nhìn chung thường sử dụng tiêu chuẩn truyền
thống về sự cẩu thả hơn là học thuyết trách nhiệm nghiêm ngặt trong
việc giải quyết những vụ kiện sai sót chữa bệnh. Điều này có nghĩa là
pháp luật không giúp cho bác sĩ bảo đảm điều trị thà nh công, mà thay
vào đó khiến cho bác sĩ phải có trách nhiệm nếu bệnh nhân có thể chứng
minh rằng thầy thuốc đã không tiến hành chữa trị theo cách thức phù hợp
với những phương pháp chữa bệnh được chấp nhận. Khái niệm phương pháp
chữa bệnh có thể chấp nhận được thay đổi từ bang này sang bang khác, và
những vấn đề như vậy phải được tòa án giải quyết trên cơ sở từng trường
hợp. Tuy nhiên, thông thường một giả định được đưa ra rằng hành xử của
các nhà chuyên môn, trong đó có các bác sĩ, là hợp lý về mặt bản chất.
Điều đó có nghĩa là để thắng được bác sĩ tại tòa án thì bệnh nhân bị
thiệt hại cần bằng chứng của ít nhất một nhân chứng chuyên môn trở lên
thể hiện rằng hành xử của bác sĩ là không chấp nhận được. Luật
sở hữu (Luật tài sản) Một nét khác biệt từ trước đến
nay luôn được tạo ra giữa bất động sản (real property) và động sản, hay
còn gọi là sở hữu cá nhân (personal property). Bất động sản thường bao
gồm đất đai, nhà cửa, cao ốc – và còn bao gồm cả hoa màu trên đất. Hầu
hết những thứ khác đều được coi là sở hữu cá nhân, gồm những thứ như
tiền, đồ trang sức, ô tô, nội thất và tiền gửi ngân hàng. Theo
Lawrence M. Friedman, trong cuốn Luật pháp Mỹ (American Law),
“Trong khuôn khổ luật pháp, từ tài sản chủ yếu có nghĩa là bất động sản;
sở hữu cá nhân gần như không được nhắc đến”. Không một lĩnh vực đặc
biệt nào của luật pháp là dành cho sở hữu cá nhân. Thay vào đó, sở hữu
cá nhân thường được xem xét theo các ngành luật hợp đồng, luật thương
mại và luật phá sản. Các quyền tài sản luôn có vai trò quan trọng
ở Mỹ, nhưng ngày nay các quyền tài sản phức tạp hơn là sự sở hữu đơn
thuần một thứ gì đó. Khái niệm tài sản hiện nay bao gồm quyền được sử
dụng tài sản đó và một số khía cạnh khác. Ngày nay, một nhánh
quan trọng của luật sở hữu giải quyết những vấn đề về kiểm soát việc sử
dụng đất. Hình thức hạn chế sử dụng đất phổ biến nhất là khoanh vùng,
một việc làm mà nhờ đó pháp luật địa phương phân chia một thành phố
thành các quận được chỉ định cho những mục đích sử dụng khác nhau. Chẳng
hạn, một phân khu có thể được chỉ định cho ý nghĩa cư trú, một khu vực
khác cho ý nghĩa thương mại, và tương tự một khu vực khác cho ý nghĩa
công nghiệp. Những đạo luật ban đầu về khoanh vùng bị phản đối vì
lý do rằng những hạn chế đối với sử dụng đất chung quy cũng là việc
thành phố chiếm đoạt đất vi phạm quy định của Hiến phá p, nó i rằng
“không một sở hữu [tài sản] tư nhân nào có thể bị chiếm dụng phục vụ mục
đích công mà không có sự đền bù thỏa đáng”. Theo một mặt nào đó, những
đạo luật về khoanh vùng lấy đi từ các chủ đất quyền sử dụng tài sản của
họ theo bất cứ cách nào mà họ cho là hợp lý. Tuy nhiên, các tòa án nhìn
chung quy định rằng những đạo luật về khoanh vùng không bị coi là hành
vi chiếm đoạt vi phạm quy định của Hiến pháp. Ngày nay, khoanh vùng là
một điều cần biết trong cuộc sống ở hầu hết những thành phố và thị trấn
với mọi quy mô trên khắp nước Mỹ. Các nhà quy hoạch thành phố và những
quan chức khác nhận thức rằng những sắc lệnh về khoanh vùng là rất quan
trọng đối với sự phát triển được quy hoạch và theo trật tự của những khu
vực đô thị. Luật thừa kế Luật thừa kế
xem xét tài sản được chuyển giao từ thế hệ này sang thế hệ khác như thế
nào. Hệ thống pháp luật Mỹ công nhận quyền của một người được định đoạt
tài sản của mình như mong muốn. Một cách phổ biến để làm điều này là
thực hiện di chúc. Nếu một người để lại một di chúc hợp lệ thì tòa án sẽ
cưỡng chế thực hiện di chúc đó. Tuy nhiên, nếu một người nào đó không
để lại di chúc (hoặc lập di chúc không hợp lệ) thì người đó sẽ được coi
là chết mà không để lại di chúc, và bang sẽ định đoạt tài sản. Việc
bang định đoạt tài sản được thực hiện theo các quy định trong luật
bang. Theo luật pháp, tài sản của người chết không để lại di chúc được
chuyển giao cho những người thừa kế của người đã chết – nghĩa là cho
những người họ hàng gần nhất của người đó. Đôi khi một người khi chết
không để lại di chúc nhưng cũng không có họ hàng còn sống. Trong trường
hợp này, tài sản không có người thừa kế sẽ được sung công, hoặc chuyển
giao cho bang nơi người chết cư trú. Các đạo luật của bang thường cấm
những người họ hàng xa, như anh chị họ hay bố của cô chú được thừa kế. Ngày
nay, người dân Mỹ càng có xu hướng soạn sẵn di chúc để bảo đảm rằng tài
sản của họ sẽ được chuyển giao theo mong muốn của họ chứ không phải
theo những quy định của bang. Di chúc là một giấy tờ chính thức. Nó phải
được soạn thảo cực kỳ cẩn thận, và ở hầu hết các bang nó phải có ít
nhất hai người làm chứng. Luật gia đình Luật
gia đình liên quan đến những vấn đề như kết hôn, ly hôn, chăm sóc con
cái và những quyền của con cái. Rõ ràng là luật gia đình động chạm đến
cuộc sống của rất nhiều người dân Mỹ hàng năm. Những điều kiện
cần để tham gia vào một cuộc hôn nhân được quy định trong luật bang.
Những luật này theo truyền thống bao gồm tuổi tối thiểu của các bên, xét
nghiệm máu hay xét nghiệm thể chất bắt buộc của các bên, những yêu cầu
về giấy phép và lệ phí, và thời gian đợi. Trước đây, hiếm khi có
kết thúc hôn nhân. Vào đầu thế kỷ XIX, một số bang chỉ cho phép ly hôn
thông qua một số đạo luật đặc biệt của cơ quan lập pháp; có một bang là
Nam Carolina đơn giản còn không cho phép ly hôn. Ở những bang khác, việc
ly hôn chỉ được chấp nhận khi một bên chứng minh được những lý do để ly
hôn. Nói cách khác, việc ly hôn chỉ dành cho những bên vô tội khi vợ /
chồng của họ phạm vào những tội như ngoại tình, ruồng bỏ, bạo hành. Thế
kỷ XX chứng kiến một thay đổi lớn lao trong những đạo luật về ly hôn.
Sự thay đổi này diễn ra theo chiều hướng chuyển từ những đạo luật mang
tính hạn chế sang ly hôn không có lỗi. Chiều hướng này là kết quả của
hai yếu tố. Thứ nhất, trong nhiều năm qua nhu cầu ly hôn ngày càng tăng.
Thứ hai, trước đây ly hôn là một vết nhơ thì nay hầu như không còn nữa.
Hệ thống ly hôn không có lỗi có nghĩa là các bên đơn giản chỉ
giải thích rằng có những khác biệt không thể hòa giải giữa họ và rằng
cuộc hôn nhân không còn giá trị nữa. Hệ thống ly hôn không có lỗi đã đặt
dấu chấm hết cho bản chất đối địch của những vụ kiện ly hôn. Một
vài trong số những vấn đề do cuộc hôn nhân đã kết thúc gây ra không thể
giải quyết một cách dễ dàng. Những tranh cãi về chăm sóc con cái, tranh
chấp xung quanh việc hỗ trợ tiền nong cho con cái, và những bất đồng về
quyền thăm nom đã xuất hiện ở tòa án một cách thường xuyên. Ngày nay,
những tranh cãi về chăm sóc con cái có thể gặp nhiều hơn và dễ gây ra
bất đồng hơn so với ly hôn không có lỗi trước kia. Nhu cầu của con trẻ
được đặt lên hàng đầu, và tòa án không còn thừa nhận một cách tự động
rằng điều đó có nghĩa là dành việc chăm sóc con cái cho người mẹ. Các
ông bố ngày càng được giành được quyền chăm sóc con cái, và việc các tòa
án đồng ý cho những ông bố bà mẹ đã ly hôn cùng chăm sóc con cái hiện
nay cũng rất phổ biến. TÒA ÁN VÀ NHỮNG TỔ CHỨC KHÁC LIÊN
QUAN ĐẾN LUẬT DÂN SỰ Những bất đồng là rất phổ biến
trong cuộc sống thường nhật của người dân Mỹ. Thông thường, những bất
đồng này có thể được giải quyết bên ngoài hệ thống pháp luật. Tuy nhiên,
đôi khi chúng nghiêm trọng đến mức một trong các bên không tìm ra một
biện pháp thay thế nào khác ngoài việc kiện ra pháp luật. Quyết
định có kiện ra tòa án hay không Mỗi năm có hàng nghìn
vụ án dân sự có thể xảy ra được giải quyết mà không có tòa án vì những
người định kiện muốn giải quyết vấn đề của họ theo một cách khác hoặc vì
nguyên đơn quyết định không đâm đơn kiện nữa. Khi đối diện với quyết
định đưa vụ việc ra tòa, để cố gắng giải quyết những bất đồng, hoặc đơn
giản là để quên đi vụ việc đó, nhiều người phải nhờ đến một phân tích
chi phí - lợi ích giản đơn. Nghĩa là, họ tính toán các chi phí cho một
phiên tòa so với những lợi ích mà họ có thể có được nếu thắng kiện. Giải
quyết tranh chấp bằng biện pháp thay thế Trên thực tế,
rất ít người sử dụng toàn bộ thủ tục tố tụng. Thay vào đó, hầu hết các
vụ án được giải quyết mà không phải nhờ đến một phiên tòa xét xử đầy đủ.
Trong các vụ án dân sự, việc xét xử có thể rất chậm trễ và tốn kém.
Trong nhiều lĩnh vực, tình trạng ứ đọng hồ sơ nhiều đến mức một vụ án có
thể mất từ ba đến năm năm mới được đưa ra xét xử. Ngoài ra, những phiên
tòa dân sự còn có thể quá phức tạp. Thông thường, chi phí cho
một phiên tòa đủ để làm nản lòng những nguyên đơn định kiện. Khả năng
thua kiện luôn có thể xảy ra. Khả năng phải chờ đợi lâu cũng luôn tồn
tại, ngay cả khi nguyên đơn thắng kiện, trước khi phán quyết được thực
hiện - nghĩa là, ngay cả khi phán quyết được thực hiện đầy đủ. Nói cách
khác, một phiên tòa đơn giản có thể tạo ra rất nhiều vấn đề mới cho các
bên liên quan. Vì tất cả những lý do này, những biện pháp thay thế trong
việc giải quyết tranh chấp ngày càng được bàn đến nhiều hơn. Từ
các doanh nghiệp lớn đến các luật sư rồi những cá nhân, sự ủng hộ giải
quyết tranh chấp bằng biện pháp thay thế (viết tắt là ADR) ngày càng
lớn. Doanh nghiệp Mỹ quan tâm đến việc tránh những tranh cãi tòa án kéo
dài và tốn kém như là cách duy nhất để giải quyết những tranh chấp kinh
doanh phức tạp. Ngoài ra, các luật sư cũng thường xuyên cân nhắc hơn
những biện pháp thay thế như hòa giải và trọng tài, những biện pháp cần
có sự giải quyết các vụ án một cách nhanh chóng hơn hoặc xử lý một số
vấn đề một cách bí mật. Và cá nhân các công dân cũng ngày càng chuyển
sang những dịch vụ hòa giải ở địa phương để hỗ trợ giải quyết xung đột
gia đình, tranh cãi với hàng xóm và phàn nàn của khách hàng. Các
quá trình giải quyết tranh chấp bằng biện pháp thay thế được thực hiện
theo nhiều mô hình khác nhau. Susan L. Keita viết trong cuốn Sổ tay
điều hành và quản lý tòa án (Handbook of Court Administration and
Management) rằng, những mô hình này thường được phân loại là “giải
quyết riêng (private), dẫn chiếu tòa án (court - referred), phụ trợ tòa
án (court - annexed), hai mô hình sau thường được gọi chung là nối kết
với tòa án (court - connected)”. Nói cách khác, một số thủ tục ADR thỏa
thuận riêng được thực hiện một cách độc lập với tòa án. Một thủ tục ADR
dẫn chiếu tòa án là một thủ tục được thực hiện bên ngoài tòa án nhưng
vẫn có một số liên hệ với tòa án. Tòa án quản lý thủ tục ADR trong một
chương trình phụ trợ của tòa án. Theo Keita, tuỳ thuộc vào mô hình và
vấn đề tranh chấp mà “các thủ tục ADR có thể là tự nguyện hoặc bắt buộc;
chúng có thể ràng buộc hoặc cho phép kháng cáo từ những phán quyết được
đưa ra; và chúng có thể đồng thuận (consensual), phán định
(adjudicatory), hoặc kết hợp cả hai”. Một số thủ tục ADR thường được sử
dụng là hòa giải, trọng tài, tìm hiểu tình hình thực tế một cách trung
lập (neutral fact-finding), xử án thu hẹp (mini - trial), xét xử sơ khởi
có bồi thẩm đoàn (summary jury trial), và xét xử riêng (private
judging). Hòa giải. Hòa giải là một thủ
tục bí mật trong đó một người không thiên lệch giúp các bên tranh chấp
nhận thức và hiểu rõ những vấn đề cần quan tâm và đạt được sự đồng thuận
với nhau. Người hòa giải không hành động như một thẩm phán. Thay vào
đó, bản thân các bên vẫn duy trì được sự kiểm soát của họ đối với quyết
định cuối cùng. Hòa giải đặc biệt thích hợp với những tình huống
mà trong đó các bên tranh chấp có mối quan hệ đang diễn ra, ví dụ như
tranh chấp giữa các thành viên trong gia đình, giữa những người hàng
xóm, giữa người chủ và người làm công, và giữa chủ nhà và người thuê
nhà. Hòa giải cũng rất hữu dụng trong những vụ ly hôn vì nó làm thay đổi
thủ tục từ tình trạng xung đột sang trạng thái hợp tác. Chăm sóc con
cái và quyền thăm nom cũng thường được giải quyết thông qua hòa giải. Và
trong nhiều lĩnh vực, những khiếu nại về thiệt hại và tài sản cá nhân
liên quan đến các công ty bảo hiểm được giải quyết thông qua hòa giải. Trọng
tài. Thủ tục trọng tài cũng tương tự như đưa ra tòa án.
Sau khi nghe cả hai bên trong một tranh chấp, một người không thiên lệch
được gọi là trọng tài quyết định tranh chấp nên được giải quyết như thế
nào. Ở đây không có thẩm phán hay bồi thẩm đoàn. Thay vào đó, trọng tài
được các bên lựa chọn sẽ đưa ra quyết định cuối cùng. Các trọng tài
được lựa chọn từ tất cả những trình độ chuyên môn khác nhau và thường tự
nguyện dành thời gian của họ để giúp mọi người giải quyết các vấn đề
phát sinh. Các bên tranh chấp lựa chọn trọng tài vì hình thức này
tiết kiệm thời gian và tiền bạc và ít mang tính nghi thức hơn so với
một phiên tòa xử án. Hầu hết những phân xử bằng trọng tài được hoàn
thành trong vòng bốn tháng trở xuống so với sáu tháng đến vài năm cho
phán quyết của tòa án. Trọng tài được sử dụng một cách riêng tư
để giải quyết rất nhiều phàn nàn của khách hàng. Những ví dụ bao gồm
tranh cãi về sửa chữa ô tô yếu kém, những vấn đề với việc trả lại hàng
hóa hư hỏng, và tính phí quá cao cho cách dịch vụ. Trọng tà i cũng được
sử dụng trong các thủ tục dẫn chiếu tòa án và phụ trợ tòa án để giải
quyết một số loại tranh chấp, bao gồm những tranh chấp trong kinh doanh,
thương mại và tuyển dụng. Tìm hiểu tình hình thực tế
một cách trung lập. Tìm hiểu tình hình thực tế một cách
trung lập là một thủ tục không chính thức nhờ đó một bên trung lập theo
thỏa thuận được yêu cầu điều tra một tranh chấp. Thông thường, tranh
chấp liên quan đến những vấn đề phức tạp và mang tính kỹ thuật. Bên
trung lập thứ ba phân tích những sự kiện gây tranh chấp và nêu kết quả
điều tra của mình vào một báo cáo hay bản khuyến nghị không ràng buộc. Thủ
tục này có thể đặc biệt có ích trong việc giải quyết những luận điệu
phân biệt chủng tộc và giới tính trong một công ty vì những vụ việc như
vậy thường gây ra sự chia rẽ sâu sắc về tình cảm và trong nội bộ. Nếu cả
hai bên là nhân viên của cùng một công ty thì những xung đột lợi ích có
thể cản trở người giám sát hoặc người quản lý tiến hành một cuộc điều
tra không thiên lệch về sự phân biệt đối xử. Để tránh tình trạng không
công bằng, một công ty có thể chuyển sang một bên thứ ba trung lập với
hy vọng đạt được cách giải quyết mà tất cả nhân viên đều tôn trọng. Xử
án thu hẹp. Trong một vụ xử án thu hẹp mỗi bên thể hiện
quan điểm của mình theo cách giống như ở tòa án trước một nhóm bao gồm
những đại diện được lựa chọn cho cả hai bên và các bên thứ ba trung lập.
Mỗi nhóm có một cố vấn trung lập. Những vụ xử án thu hẹp được thiết kế
để xác định những vấn đề và phá t triển cơ sở cho những đàm phán giải
quyết trong thực tế. Đại diện của cả hai bên trình bày khái quát quan
điểm và lý lẽ của họ trước nhóm. Do vậy, mỗi bên sẽ hiểu hơn về quan
điểm của bên kia. Sau khi nghe trình bày của mỗi bên, nhóm đại diện, bao
gồm cả cố vấn, họp lại để đưa ra một giải pháp thỏa hiệp. Cố vấn trung
lập cũng có thể đưa ra ý kiến mang tính tư vấn liên quan đến tinh thần
của vụ việc. ý kiến tư vấn này là không ràng buộc trừ phi các bên thống
nhất bằng văn bản trước khi chịu ràng buộc bởi ý kiến đó. Lợi ích
chủ yếu của xử án thu hẹp là cả hai bên đều có cơ hội đưa ra những giải
pháp. Nó cũng có nghĩa là mỗi bên được trình bày và tiếp cận với những
thông tin chi tiết. Xét xử sơ khởi có bồi thẩm đoàn. Xét
xử sơ khởi có bồi thẩm đoàn liên quan đến một thủ tục do tòa án quản lý
diễn ra sau khi vụ án được khởi kiện nhưng trước khi được xét xử. Trong
xét xử sơ khởi có bồi thẩm đoàn, mỗi bên trình bày lý lẽ của mình cho
một bồi thẩm đoàn (thông thường gồm sáu người). Một bản khái quát lý lẽ
của mỗi bên cũng như những lập luận vắn tắt mở đầu và kết thúc được
trình bày. Thông thường, các luật sư được dành một khoảng thời gian ngắn
(từ 1 giờ trở xuống) để trình bày. Họ bị hạn chế trong việc chỉ trình
bày những thông tin mà có thể được chấp nhận khi xét xử. Không có lời
khai nào được lấy từ những nhân chứng đã tuyên thệ, và biên bản lưu
thông thường không được lập. Do biên bản lưu là không ràng buộc nên
những quy định về thủ tục và bằng chứng linh động hơn so với một phiên
tòa thông thường. Bồi thẩm đoàn đưa ra một quyết định mang tính
cố vấn, không ràng buộc, trên cơ sở những lý lẽ được trình bày. Trong
trường hợp này, lời tuyên án được xây dựng ra cho có thể giúp cho các
luật sư và khách hàng của họ nắm bắt tường tận vụ án. Nó cũng có thể tạo
ra một cơ sở để giải quyết tranh chấp. Nếu tranh chấp không được giải
quyết trong hoặc ngay sau khi xét xử sơ khởi có bồi thẩm đoàn thì một
cuộc họp trước khi xét xử sẽ được tổ chức trước khi tòa án thảo luận
việc giải quyết tranh chấp. Một trong những lợi thế quan trọng
của việc xét xử sơ khởi có bồi thẩm đoàn là thời gian thực hiện. Một
cuộc xét xử sơ khởi có bồi thẩm đoàn thường được tiến hành trong vòng
chưa đến một ngày so với vài ngày hoặc vài tuần của những phiên tòa xét
xử đầy đủ. Xét xử riêng. Phương pháp
giải quyết tranh chấp bằng biện pháp thay thế này sử dụng những thẩm
phán đã về hưu, những người làm việc để nhận phí. Những người ủng hộ
khẳng định phương pháp này có một số lợi thế. Thứ nhất, các bên có thể
chọn ra một người với những phẩm chất và kinh nghiệm thỏa đáng để giải
quyết vụ việc. Thứ hai, các bên có thể được bảo đảm rằng vụ việc sẽ được
giải quyết ngay sau khi lên kế hoạch và không bị kéo dài vì lịch làm
việc của tòa án quá dầy đặc. Cuối cùng, chi phí cho phương pháp này có
thể thấp hơn so với tranh kiện đầy đủ. Tuy nhiên, cũng có những lời phê
bình phương pháp xét xử riêng, đó là mức phí cao do một số thẩm phán đã
về hưu đặt ra. Chẳng hạn, một tòa phúc thẩm ở California đã lưu ý rằng
một số thẩm phán đương nhiệm đang rời bỏ công việc của mình để kiếm thêm
tiền với tư cách là những thẩm phán xét xử riêng. Những
tòa án chuyên biệt Hệ thống tòa án bang thường được đặc
trưng bở i rất nhiều tòa án chuyên biệt được thành lập để giải quyết
những loại vụ án dân sự cụ thể. Những tòa án xét xử các mối quan hệ
trong gia đình thường được thành lập để giải quyết những vấn đề như ly
hôn, chăm sóc con cái và hỗ trợ con cái. Trong nhiều khu vực tài phán,
những tòa án về thủ tục di chúc giải quyết việc phân xử di sản và tranh
chấp di chúc. Có lẽ loại tòa án chuyên biệt được biết đến nhiều
nhất là những tòa án giải quyết khiếu kiện giá trị nhỏ. Những tòa án này
có thẩm quyền pháp lý xét xử những vụ án mà số tiền khiếu kiện để đòi
không vượt quá một con số nào đó. Trị giá tiền đòi thay đổi theo thẩm
quyền pháp lý nhưng mức tối đa thường là 500 hoặc 1.000 USD. Những tòa
án giải quyết khiếu kiện giá trị nhỏ giúp cho những vụ án ít phức tạp
hơn được giải quyết một cách không chính thức hơn so với hầu hết những
tòa án xét xử khác. Phí khởi kiện là thấp, và việc sử dụng luật sư
thường không được khuyến khích, khiến cho người dân bình thường có thể
đến được với những tòa án giải quyết khiếu kiện giá trị nhỏ. Các
cơ quan hành chính Rất nhiều cơ quan chính phủ cũng đã
thành lập các đơn vị hành chính với thẩm quyền bán tư pháp được phép
giải quyết một số loại vụ án nhất định. Chẳng hạn ở cấp độ liên bang,
các cơ quan như Ủy ban thương mại liên bang và Ủy ban thông tin liên tục
liên bang tiến hành việc phân xử những vụ việc thuộc phạm vi thẩm quyền
của họ. Kháng án về phán quyết của một trong những cơ quan này có thể
được đưa lên xem xét ở tòa án phúc thẩm liên bang. Ở cấp bang, ví
dụ phổ biến về một cơ quan hành chính hỗ trợ việc giải quyết các khiếu
kiện dân sự là Ủy ban bồi thường cho công nhân. Ủy ban nà y xác định
liệu thương tích của một người làm công ăn lương có liên quan tới công
việc hay không và do đó họ có được trả tiền bồi thường hay không. Rất
nhiều phòng / ban quản lý phương tiện đi lại có gắn máy có các ủy ban
điều trần để quyết định việc thu hồi giấy phép lái xe. Một hình thức
khác của ủy ban hành chính cũng thường được bắt gặp trong những quy định
của bang về các vấn đề quyền dân sự và các trường hợp bị cáo buộc là
phân biệt đối xử. TRÌNH TỰ TỐ TỤNG DÂN SỰ Một
số vụ tranh chấp được giải quyết bằng những phương pháp giải quyết
tranh chấp khác nhau, trong một tòa án chuyên môn, hoặc thông qua một cơ
quan hành chính. Tuy nhiên, hàng năm vẫn có rất nhiều vụ tranh chấp
phải đưa ra trước tòa án dân sự để giải quyết. Nhìn chung, thủ
tục tranh tụng được sử dụng trong các phiên tòa hình sự cũng được sử
dụng tại các tòa án dân sự, với một số khác biệt quan trọng. Thứ nhất,
nguyên đơn phải có vị thế tranh chấp. Khái niệm này đơn giản có nghĩa là
người khởi xướng vụ kiện phải có lợi ích cá nhân liên quan tới kết quả
của vụ tranh cãi. Bằng không, sẽ không có tranh cãi thực sự giữa các bên
và do vậy không có vụ việc thực tế để tòa phân xử. Sự khác biệt
lớn thứ hai là ở chỗ chuẩn mực về bằng chứng được sử dụng trong các vụ
án dân sự là chứng cứ vượt trội của nguyên đơn để thuyết phục được tòa,
chứ không phải tiêu chuẩn “nằm ngoài một sự nghi ngờ hợp lý” nghiêm ngặt
thường được sử dụng trong các vụ án hình sự. Chứng cứ vượt trội của
nguyên đơn thường có nghĩa là có đủ bằng chứng để vượt qua sự nghi ngờ
hoặc suy đoán. Nó hiển nhiên có nghĩa là các vụ án dân sự thường cần ít
bằng chứng hơn so với các vụ án hình sự. Khác biệt lớn thứ ba là
rất nhiều sự bảo đảm về quy trình tố tụng mở rộng mà bị đơn có được
trong vụ án hình sự không được áp dụng trong tố tụng dân sự. Ví dụ, Hiến
pháp không cho phép các bên được bàn bạc, thảo luận với nhau. Tu chính
án Hiến pháp thứ bảy bảo đảm quyền có một bồi thẩm đoàn trong các vụ
kiện “mà giá trị tranh chấp vượt quá 20 USD.” Mặc dù tu chính án này
không được áp dụng đối với các bang, nhưng hầu hết các bang đều có những
bảo đảm về hiến pháp tương tự. Khởi lập một vụ kiện dân
sự Người khởi lập vụ kiện dân sự được gọi là nguyên đơn,
còn người bị kiện là bị đơn hoặc bên bị. Một vụ kiện dân sự được gọi
theo tên của nguyên đơn và bị đơn, ví dụ như Jones kiện Miller.
Tên của nguyên đơn đứng trước. Trong một vụ kiện thông thường, luật sư
của nguyên đơn trả một khoản phí và đệ trình một khiếu kiện hoặc kiến
nghị tới ban thư ký của một tòa án phù hợp. Khiếu kiện nêu rõ những sự
kiện làm cơ sở cho hành động, những thiệt hại xảy ra, và phán quyết hoặc
đền bù mà nguyên đơn mong muốn. Quyết định về việc tòa án nào sẽ
thụ lý vụ việc liên quan tới các khái niệm về quyền hạn xét xử và nơi
chốn: Quyền hạn xét xử liên quan tới thẩm quyền của tòa án để thực thi
quyền lực pháp lý, còn nơi chốn có nghĩa là địa điểm mà thẩm quyền này
có thể được thực thi. Những yêu cầu về quyền hạn xét xử được thỏa
mãn khi tòa án có thẩm quyền pháp lý đối với cả vấn đề tranh cãi và bản
thân bị đơn. Điều này có nghĩa rằng một số tòa án có thể có quyền hạn
xét xử đối với cùng một vụ việc. Ví dụ, giả sử rằng một người cư trú tại
Dayton, Ohio, bị thương rất nặng trong một tai nạn ôtô tại Tennessee
khi xe của anh ta đang lái bị tông vào phía sau bởi một chiếc xe khác do
một người cư trú tại Kingsport, Tennessee, lái. Tổng thiệt hại đối với
người lái xe ở Ohio và xe của anh ta là 80.000 USD. Một tòa xét xử cấp
bang ở Ohio có thẩm quyền đối với đối tượng tranh tụng, và Ohio hoàn
toàn có thể có quyền tài phán đối với bị đơn. Bên cạnh đó, các tòa án
bang Tennessee cũng có thể có quyền tài phán. Các tòa án hạt liên bang ở
cả Ohio và Tennessee cũng có quyền tài phán bởi vì vụ việc có liên quan
tới công dân của các bang khác nhau và giá trị của vụ tranh chấp vượt
quá 75.000 USD. Giả sử rằng quyền tài phán là yếu tố duy nhất cần quan
tâm, nguyên đơn có thể kiện tại bất cứ tòa án nào trong số những tòa án
kể trên. Việc xác định nơi xét xử phù hợp có thể được quy định
bởi luật trên cơ sở nhằm tránh những thiên kiến, hoặc đơn giản chỉ là để
cho thuận tiện. Luật liên bang quy định rằng nơi xét xử phù hợp là tòa
án hạt mà tại đó nguyên đơn hoặc bị đơn cư trú, hoặc tại nơi vụ việc xảy
ra. Các quy định về tòa xét xử của các bang có khác nhau đôi chút, song
chúng thường quy định rằng khi vụ việc có liên quan đến đất đai, thì
tòa xét xử sẽ là tòa án hạt nơi có khu đất đó. Trong hầu hết các trường
hợp khác, tòa xét xử sẽ là tòa án hạt nơi bị đơn cư trú. Các vấn
đề về nơi xét xử cũng có thể liên quan tới thiên kiến được nhận thấy
hoặc được e ngại sẽ xảy ra của thẩm phán hoặc bồi thẩm đoàn tương lai.
Đôi khi, các luật sư phản đối các phiên tòa được tổ chức tại một khu vực
cụ thể vì lý do này và có thể đề nghị chuyển vụ tố tụng cho tòa án tại
nơi khác. Mặc dù hình thức phản đối này có lẽ thường xuất hiện nhiều hơn
ở các phiên tòa hình sự được công khai rộng rãi, song nó cũng không
phải là không có tại các phiên tòa dân sự. Khi tòa án phù hợp đã
được xác định và đơn khiếu tố đã được gửi đi, viên lục sự tòa sẽ đính
kèm bản sao đơn khiếu tố này với trát đòi của tòa gửi tới bị đơn sau đó.
Trát đòi có thể được tống đạt bởi nhân viên của văn phòng quận trưởng,
văn phòng cảnh sát trưởng hoặc một cơ quan dịch vụ tố tụng tư nhân. Trát
đòi yêu cầu bị đơn phải đệ trình một lời phúc đáp, được biết đến như
lời biện hộ, trong một khoảng thời gian xác định (thường là 30 ngày).
Nếu bị đơn không làm như vậy, ông ta / bà ta có thể sẽ phải chịu sự xét
xử vắng mặt. Những hành động đơn giản này của nguyên đơn, thư ký
tòa án và người tống đạt theo thủ tục sẽ khởi đầu quá trình của một
phiên tòa dân sự. Những gì xảy ra tiếp theo là hàng loạt hoạt động nhộn
nhịp diễn ra trước phiên tòa thực sự và có thể kéo dài vài tháng. Khoảng
75% các vụ việc đã được giải quyết mà không cần đến tòa án trong thời
gian này. Những hoạt động diễn ra trước phiên tòa Kiến
nghị. Khi trát đòi đã được tống đạt tới bị đơn, luật sư
của bị đơn có thể đưa ra một số kiến nghị. Một kiến nghị hủy bỏ thường
yêu cầu rằng tòa án tuyên bố trát đòi không có hiệu lực trên cơ sở nó
không được tống đạt đúng cách. Ví dụ, bị đơn có thể khiếu nại rằng trát
đòi đã không được chuyển cho đích thân bị đơn theo như yêu cầu của luật
pháp bang. Có hai loại kiến nghị nhằm làm rõ hoặc phản đối khiếu
kiện của nguyên đơn. Một kiến nghị phản đối yêu cầu tòa án cắt bỏ hoặc
xóa bớt một số phần nhất định trong đơn khiếu tố bởi vì chúng không
đúng, không thích hợp, hoặc không liên quan. Một kiến nghị làm rõ thường
đề nghị tòa án yêu cầu nguyên đơn phải nêu cụ thể hơn những lời khiếu
kiện. Hình thức kiến nghị thứ tư thường được đưa ra trong một vụ
án dân sự là kiến nghị bác bỏ. Kiến nghị này có thể lập luận rằng tòa án
không đủ thẩm quyền tài phán, hoặc có thể cho rằng nguyên đơn không đưa
ra được cơ sở pháp lý thuyết phục cho hành động chống lại bị đơn, cho
dù những lời cáo buộc là đúng. Trả lời.
Nếu đơn khiếu tố vẫn được duy trì sau phán quyết của thẩm phán đối với
các kiến nghị, bị đơn lúc đó sẽ phải đệ trình một bản trả lời cho đơn
khiếu tố. Bản trả lời này có thể bao gồm lý lẽ thừa nhận, phủ nhận, biện
hộ và phản tố. Khi trong bản trả lời có sự thừa nhận, sẽ không cần phải
chứng minh sự việc trong phiên tòa. Tuy nhiên, một sự phủ nhận sẽ dẫn
tới việc phải chứng minh sự việc trong quá trình diễn ra phiên tòa. Lời
biện hộ nói rằng một số sự việc được nêu trong bản trả lời có thể khiến
cho nguyên đơn không thể yêu cầu bồi thường thiệt hại. Bị đơn có
thể tiến hành một hành động riêng biệt được gọi là phản tố. Nếu bị đơn
nghĩ rằng có cơ sở cho hành động chống lại nguyên đơn phát sinh từ chính
những sự kiện trên, ông ta / bà ta phải đệ trình khiếu kiện lên tòa án
để đáp lại khiếu kiện của nguyên đơn. Nguyên đơn sẽ phải gửi một bản
phúc đáp cho bản trả lời của bị đơn. Trong bản phúc đáp này, nguyên đơn
có thể thừa nhận, phủ nhận hoặc biện hộ chống lại những lời cáo buộc
hoặc sự việc được nêu ra trong lời phản tố. Tiết lộ
các tài liệu. Hệ thống pháp lý Hoa Kỳ quy định thủ tục
tiết lộ các tài liệu; có nghĩa là mỗi bên đều có quyền được biết các
thông tin thuộc sở hữu của bên kia. Có một số hình thức tiết lộ tài liệu
như sau: Hội ý trước phiên tòa.
Trước khi tòa xét xử, thẩm phán có thể đề nghị một cuộc hội ý trước
phiên tòa để thảo luận các vấn đề không chính thức với luật sư của các
bên. Thông lệ chung chỉ cho phép thẩm phán và các luật sư tham gia hội
ý, và cuộc hội ý này thường diễn ra tại phòng của thẩm phán. Tại
cuộc họp này, thẩm phán và các luật sư cố gắng đi đến thỏa thuận về
những vấn đề thực tế không thể tranh cãi được, thường được gọi là các
quy tắc thỏa thuận. Mục tiêu của các quy tắc thỏa thuận này là nhằm làm
cho phiên tòa thực tế diễn ra hiệu quả hơn bằng việc giảm bớt những vấn
đề phải tranh cãi trong phiên tòa. Các luật sư cũng cho bên kia xem danh
sách các nhân chứng và tài liệu vốn là một phần của vụ kiện. Các
luật sư và thẩm phán cũng có thể sử dụng cuộc hội ý trước phiên tòa để
cố gắng giải quyết vụ kiện. Một số thẩm phán rất tích cực làm việc để
đạt được thỏa thuận giữa hai bên, và do vậy không phải đưa vụ kiện ra
xét xử trước tòa. Phiên tòa dân sự Lựa
chọn bồi thẩm đoàn. Tu chính án Hiến pháp thứ bảy bảo đảm
quyền được xét xử bởi bồi thẩm đoàn trong một vụ kiện dân sự tại một
tòa án liên bang. Các hiến pháp của bang cũng quy định quyền này. Quyền
được xét xử bởi bồi thẩm đoàn có thể bị khước từ, và trong trường hợp đó
thẩm phán sẽ quyết định vụ kiện. Mặc dù theo truyền thống, bồi thẩm
đoàn thường gồm 12 người, song hiện nay con số này rất khác biệt giữa
các nơi. Hầu hết các tòa án hạt thuộc liên bang ngày nay đều sử dụng bồi
thẩm đoàn ít hơn 12 người trong các vụ kiện dân sự. Phần lớn các bang
cũng ủy quyền cho các bồi thẩm đoàn với quy mô nhỏ hơn trong một số hoặc
tất cả các phiên tòa dân sự. Giống như trong các phiên tòa hình
sự, các thành viên của bồi thẩm đoàn phải được lựa chọn một cách ngẫu
nhiên từ một bộ phận tương đối tiêu biểu của cộng đồng. Một nhóm thành
viên bồi thẩm đoàn đông hơn được triệu tập tới trụ sở tòa án, và khi một
vụ kiện được chỉ định cho tòa dân sự, một nhóm nhỏ hơn các thành viên
bồi thẩm đoàn sẽ được đưa đến một phòng xử án cụ thể. Sau khi
tiến hành thẩm tra sơ khởi - việc thẩm tra này có thể bao gồm cả sự phản
đối của các luật sư đối với một số thành viên nào đó - một ban bồi thẩm
sẽ ngồi tại tòa để nghe xét vụ việc cụ thể. Các luật sư có thể phản đối
có lý do đối với một thành viên bồi thẩm đoàn; trong trường hợp này
thẩm phán sẽ phải quyết định liệu người bị phản đối có thiên kiến hay
không. Mỗi bên có thể đưa ra một số nhất định những phản đối suy đoán -
phản đối một thành viên bồi thẩm đoàn mà không cần phải nêu bất kỳ một
lý do nào. Tuy nhiên, Tòa án tối cao Hoa Kỳ đã phán quyết rằng sự bảo
đảm về quyền bình đẳng của Tu chính án Hiến pháp thứ mười bốn cấm việc
sử dụng những phản đối này để tuyên bố các thành viên bồi thẩm đoàn là
không đủ tư cách vì lý do chủng tộc hay giới tính của họ. Các phản đối
suy đoán được quy định số lượng bởi luật pháp hoặc phán quyết tòa án và
thường dao động từ hai tới sáu. Các tuyên bố mở màn.
Sau khi chọn xong bồi thẩm đoàn, các luật sư trình bày tuyên bố mở màn
của mình. Luật sư của bên nguyên bắt đầu trước. Ông / bà ta sẽ giải
thích cho bồi thẩm đoàn về vụ việc và về những gì mà bên nguyên muốn
chứng minh. Luật sư của bên bị thường có thể lựa chọn việc trình bày
tuyên bố mở màn của mình ngay sau khi luật sư bên nguyên kết thúc tuyên
bố mở màn, hoặc đợi cho tới khi bên nguyên trình bày xong toàn bộ vụ
việc. Nếu luật sư của bên bị chờ đợi, ông / bà ta sẽ trình bày toàn bộ
vụ việc về phía bị đơn một cách liên tục, từ tuyên bố mở màn cho tới
những nội dung tiếp theo. Các tuyên bố mở màn là rất có giá trị, bởi vì
chúng khái quát vụ việc và giúp bồi thẩm đoàn dễ dàng hiểu được các bằng
chứng khi chúng được đưa ra. Trình bày lý lẽ của bên
nguyên. Trong một phiên tòa dân sự thông thường, bên
nguyên trình bày và cố gắng chứng minh vụ việc của mình với bồi thẩm
đoàn trước, đồng thời là bên cuối cùng đưa ra các lập luận kết thúc. Khi
trình bày vụ việc, luật sư của bên nguyên thường cho gọi các nhân chứng
để làm chứng và đưa ra các tài liệu hoặc các vật chứng khác. Khi
một nhân chứng được cho gọi, ông / bà ta sẽ bị thẩm vấn trực tiếp bởi
luật sư bên nguyên. Tiếp đó luật sư bên bị sẽ có cơ hội hỏi các câu hỏi
hoặc đối chất với nhân chứng. Tòa án tối cao bang Arizona gần đây đã
tiến hành một số bước để giúp thành viên bồi thẩm đoàn có thể ra những
quyết định đúng đắn hơn trong các phiên tòa dân sự. Bên cạnh những quy
định khác, tòa án cấp cao nhất này của bang đã thông qua việc cho phép
thành viên bồi thẩm đoàn được chuyển các câu hỏi viết cho nhân chứng
thông qua thẩm phán. Các bang khác đang xem xét việc thực hiện thông lệ
mới của Arizona. Sau khi đối chất, luật sư của bên nguyên có thể tiếp
tục hỏi trực tiếp nhân chứng, và tiếp đó luật sư bên bị tiếp tục đối
chất với nhân chứng. Nhìn chung, các nhân chứng có thể chỉ làm
chứng về những vấn đề mà họ đã trực tiếp nhìn thấy; họ thường không
trình bày ý kiến của mình. Tuy nhiên, có một ngoại lệ rất quan trọng cho
quy định chung này là các nhân chứng có trình độ chuyên môn có thể được
triệu tập cụ thể để đưa ra ý kiến về những vấn đề thuộc phạm vi chuyên
môn của họ. Để được coi là một nhân chứng có trình độ chuyên môn,
người đó phải có kiến thức thực tế về một lĩnh vực cụ thể. Hơn nữa,
kiến thức này thường phải được xác minh trong quá trình tranh luận tại
tòa. Cả hai bên thường giới thiệu những chuyên gia mà ý kiến của họ mâu
thuẫn nhau. Khi điều này xảy ra, bồi thẩm đoàn sẽ là người cuối cùng
quyết định ý kiến nào là đúng. Khi bên nguyên đã trình bày xong
toàn bộ chứng cớ, luật sư tuyên bố kết thúc phần trình bày về vụ việc
(quay về vị trí của mình). Kiến nghị phán quyết bác
bỏ. Sau khi bên nguyên đã kết thúc phần trình bày về vụ
kiện, bị đơn thường đưa ra kiến nghị về một phán quyết bác bỏ vụ kiện.
Khi đưa ra kiến nghị này, có nghĩa là bị đơn cho rằng nguyên đơn không
chứng minh được vụ việc của mình và phải bị xử thua. Lúc này, thẩm phán
sẽ quyết định liệu bên nguyên có thể thắng được tại điểm này nếu vụ kiện
bị ngừng lại. Nếu như thẩm phán quyết định rằng các chứng cứ của bên
nguyên không đủ thuyết phục, ông / bà ta sẽ chấp nhận kiến nghị và đưa
ra phán quyết bác bỏ cho bị đơn. Như vậy, nguyên đơn sẽ thua kiện. Kiến
nghị phán quyết bác bỏ này cũng tương tự như kiến nghị bác bỏ trước khi
diễn ra phiên tòa. Phần trình bày lý lẽ của bên bị.
Nếu như kiến nghị về phán quyết bác bỏ bị bác, bị đơn sẽ phải trình bày
các chứng cứ. Phần trình bày lý lẽ của bị đơn sẽ giống như phần trình
bày của nguyên đơn. Có nghĩa là, sẽ có sự thẩm tra trực tiếp các nhân
chứng, đệ trình các tài liệu và các vật chứng khác. Bên nguyên có quyền
đối chất với nhân chứng. Sau đó sẽ là việc thẩm tra lại và đối chất lại.
Bác bỏ của bên nguyên. Sau phần trình
bày của bị đơn, nguyên đơn có thể đưa ra những bằng chứng bác bỏ, nhằm
mục đích bác bỏ các bằng chứng của bị đơn. Phản bác
đối với sự bác bỏ của bên nguyên. Luật sư của bên bị có
thể trình bày những bằng chứng để phản bác lại những bằng chứng bác bỏ
của bên nguyên. Hình thức “bác bỏ và phản bác” này có thể được tiếp tục
cho tới tận khi không còn bằng chứng nào cả. Các lập
luận kết thúc. Sau khi tất cả các bằng chứng đã được trình
lên, các luật sư sẽ đưa ra những lập luận kết thúc, hoặc phần tổng kết,
cho bồi thẩm đoàn. Luật sư của bên nguyên sẽ nói cả trước và sau. Điều
đó có nghĩa là ông / bà ta sẽ vừa mở đầu vừa kết thúc phần lập luận, còn
luật sư của bên bị sẽ tranh luận chen ngang. Trong giai đoạn này của
phiên xét xử, mỗi luật sư sẽ công kích bằng chứng của bên kia là không
đáng tin cậy và cũng có thể cố gắng làm mất tín nhiệm đối với nhân chứng
của đối phương. Trong việc này, các luật sư thường sử dụng tài hùng
biện hoặc đưa ra những yêu cầu khẩn thiết đầy xúc động đối với bồi thẩm
đoàn. Tuy nhiên, các lập luận nhất thiết phải dựa trên các sự việc thực
tế được chứng minh bởi bằng chứng và được trình lên trong phiên tòa. Hướng
dẫn cho bồi thẩm đoàn. Giả thiết rằng một phiên tòa được
xét xử bởi bồi thẩm đoàn không bị khước từ, các hướng dẫn dành cho bồi
thẩm đoàn sẽ được đưa ra sau khi chấm dứt phần lập luận kết thúc. Thẩm
phán thông báo cho bồi thẩm đoàn rằng bồi thẩm đoàn phải phán quyết dựa
trên các bằng chứng được đưa ra trước tòa. Các hướng dẫn của thẩm phán
cũng thông báo cho thành viên bồi thẩm đoàn biết về những quy định,
nguyên tắc và tiêu chuẩn của khái niệm pháp lý cụ thể có liên quan.
Trong các phiên tòa dân sự, một kết luận dành cho nguyên đơn phải được
dựa trên cơ sở sự vượt trội về bằng chứng. Điều đó có nghĩa là các thành
viên bồi thẩm đoàn phải cân nhắc các bằng chứng được trình bày trong
phiên tòa và quyết định trong đầu xem các bằng chứng có sức thuyết phục
hơn, xét về cả tình tiết và giá trị, có lợi cho nguyên đơn hay không. Phán
quyết. Bồi thẩm đoàn sẽ lui vào phòng bồi thẩm đoàn để
hội ý riêng với nhau về quyết định của mình. Các thành viên phải đưa ra
một phán quyết mà không có sự liên hệ với bên ngoài. Trong một số trường
hợp, cuộc thảo luận có thể kéo dài và chi tiết tới mức các bồi thẩm
đoàn phải được cung cấp đồ ăn và chỗ ngủ cho tới tận khi họ đưa ra được
phán quyết. Lúc đó, phán quyết sẽ là sự nhất trí của tất cả các thành
viên bồi thẩm đoàn sau khi đã thảo luận và phân tích chi tiết các bằng
chứng. Đôi khi, bồi thẩm đoàn đã cân nhắc và thảo luận hết sức kỹ lưỡng
với tất cả thiện ý, song vẫn không đi tới được phán quyết. Khi trường
hợp này xảy ra, thẩm phán sẽ tuyên bố hủy bỏ phiên tòa để thay thế bằng
một bồi thẩm đoàn khác. Điều đó có nghĩa là sẽ phải tiến hành một phiên
xét xử mới. Sau khi đã đưa ra được phán quyết, bồi thẩm đoàn sẽ
quay trở lại phòng xử án, và tại đó họ sẽ chuyển phán quyết cho thẩm
phán. Các bên được thông báo về phán quyết. Theo thông lệ, lúc đó bồi
thẩm đoàn sẽ được xin ý kiến về phán quyết - thẩm phán sẽ hỏi từng thành
viên bồi thẩm đoàn xem họ có đồng tình với phán quyết hay không. Các
kiến nghị sau phiên xét xử. Khi phán quyết đã được công
bố, bên không hài lòng với phán quyết có thể tiếp tục tiến hành rất
nhiều chiến thuật. Bên thua kiện có thể đệ trình một kiến nghị về bản án
bất chấp phán quyết đã đưa ra. Hình thức kiến nghị này được cho phép
khi thẩm phán quyết định rằng phán quyết mà bồi thẩm đoàn đã đưa ra là
không hợp lý. Bên thua kiện cũng có thể đệ trình kiến nghị về
việc mở một phiên tòa mới. Thông thường, cơ sở đề xuất kiến nghị này là
phán quyết đưa ra đã đi ngược lại với sức nặng về bằng chứng. Thẩm phán
sẽ chấp thuận kiến nghị trên cơ sở đó nếu ông / bà ta đồng tình rằng các
bằng chứng được đưa ra đơn giản là không hỗ trợ cho phán quyết mà bồi
thẩm đoàn đã tuyên bố. Một phiên tòa mới cũng có thể được chấp nhận vì
một số lý do, ví dụ như: thiệt hại quá mức, thiệt hại hoàn toàn không
tương xứng, việc phát hiện ra các bằng chứng mới, và sai sót khi đưa ra
bằng chứng, v.v.. Trong một số trường hợp, bên thua kiện cũng có
thể đệ trình một kiến nghị miễn giảm bản án. Loại kiến nghị này có thể
được chấp nhận nếu thẩm phán phát hiện sai sót khi ghi chép bản án, khám
phá thêm một số bằng chứng mới, hoặc xác định rằng bản án đã bị làm sai
lệch theo cách gian lận. Án văn và thi hành. Một
phán quyết có lợi cho bị đơn sẽ kết thúc phiên xét xử, nhưng phán quyết
có lợi cho nguyên đơn đòi hỏi phải có thêm một giai đoạn nữa trong
trình tự tố tụng. Trong các phiên tòa dân sự thường không có bản án,
nhưng phải xác định phương thức bồi thường hoặc các thiệt hại được ước
tính. Sự xác định này được gọi là án văn. Trong trường hợp án văn
là về thiệt hại về tiền bạc và bị đơn không tự nguyện trả số tiền đã
được nêu, bên nguyên có thể đề nghị viên lục sự tòa đưa ra một lệnh thi
hành án. Lệnh thi hành sẽ được chuyển đến văn phòng cảnh sát trưởng, yêu
cầu cảnh sát trưởng tịch biên tài sản của bên bị và bán đấu giá chúng
để trả cho nguyên đơn theo án đã tuyên. Có một cách khác là ban hành một
lệnh cầm cố - đây là một quyền pháp lý cho phép giữ tài sản có thể được
sử dụng để trả cho nguyên đơn theo án văn. Kháng án.
Nếu một bên cảm thấy có sự sai sót về luật pháp trong quá trình xét xử,
và nếu thẩm phán không chấp nhận kiến nghị sau phiên xử về việc mở một
phiên xét xử mới, bên không hài lòng có thể kháng án lên một tòa án cấp
cao hơn. Có lẽ những lý lẽ phổ biến nhất cho việc kháng án này là vì
thẩm phán đã chấp nhận những bằng chứng mà lẽ ra phải bị loại trừ, từ
chối chấp nhận những bằng chứng lẽ ra phải được đưa vào, hoặc không đưa
ra những chỉ dẫn phù hợp cho bồi thẩm đoàn. Một luật sư đưa ra cơ
sở cho việc kháng án bằng cách phản đối những sai sót mà ông ta cho
rằng đã xuất hiện trong quá trình xét xử. Sự phản đối này sẽ được ghi
trong hồ sơ xét xử và trở thành một phần của biên bản phiên tòa; những
chi tiết này sau này sẽ được xem xét bởi tòa phúc thẩm. Quyết định của
tòa phúc thẩm có thể là giữ nguyên bản án của tòa cấp thấp hơn hoặc mở
một phiên xét xử mới.
Nội dung
-
- Giới thiệu hệ thống pháp luật Hoa Kỳ
- Chương 1: Lịch sử và tổ chức của hệ thống tư pháp liên bang
- Chương 2: Lịch sử và tổ chức của các hệ thống tư pháp bang
- Chương 3: Ranh giới tài phán và lập chính sách
- Chương 4: Các luật sư, nguyên đơn và nhóm lợi ích trong thủ tục tố tụng
- Chương 5: Thủ tục tố tụng hình sự
- Chương 6: Thủ tục tại tòa án dân sự
- Chương 7: Các thẩm phán liên bang
- Chương 8: Việc thực thi và tác động của các chính sách tòa án
- Hiến Pháp Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ
- Chú giải các thuật ngữ và Danh mục tài liệu tham khảo