Khái quát về nền kinh tế Mỹ
Chương 8: Ngành nông nghiệp Mỹ: Tầm quan trọng đang thay đổi
Ấn phẩm của Chương trình Thông tin Quốc tế, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, tháng 2/2001
Vào những ngày đầu
tiên của quốc gia này, hoạt động nông nghiệp đã giữ một vị trí chủ yếu
trong nền kinh tế và văn hóa Hoa Kỳ. Tất nhiên, nông dân có một vai trò
quan trọng trong bất cứ xã hội nào vì họ nuôi sống mọi người. Nhưng hoạt
động nông nghiệp được đánh giá đặc biệt ở nước Mỹ. Trong giai đoạn ban
đầu của đất nước, người nông dân được coi là khuôn mẫu cho những đức
tính cần thiết trong hoạt động kinh tế như cần cù chịu khó, sáng tạo, và
làm ăn tự chủ. Hơn thế nữa, nhiều người Mỹ - đặc biệt là những người
nhập cư chưa bao giờ có một mảnh đất và chưa từng có quyền sở hữu đối
với sức lao động và sản phẩm của chính mình - thấy rằng sở hữu một trang
trại là chiếc vé để đi vào hệ thống kinh tế Mỹ. Ngay cả những người đã
rời bỏ nông nghiệp cũng thường sử dụng đất đai như một loại hàng hóa rất
dễ mua và bán để mở ra con đường kiếm lời khác.
Người nông dân
Mỹ nhìn chung đều khá thành công trong việc sản xuất lương thực thực
phẩm. Quả thực, đôi khi sự thành công của họ lại gây ra vấn đề rắc rối
nhất: theo chu kỳ, lĩnh vực nông nghiệp phải chịu những đợt sản xuất
thừa gây sức ép lên giá cả. Với những chu kỳ dài, chính phủ phải giúp
giải quyết ổn thỏa tình trạng xấu nhất đó. Nhưng trong những năm gần
đây, sự trợ giúp như vậy đã giảm xuống; điều này phản ánh mong muốn của
chính phủ trong việc cắt giảm chi tiêu, đồng thời cho thấy lĩnh vực nông
nghiệp đã giảm bớt ảnh hưởng về mặt chính trị.
Nông dân Mỹ có khả năng tạo ra sản lượng lớn do
nhiều yếu tố. Thứ nhất, họ làm việc trong những điều kiện tự nhiên cực
kỳ thuận lợi. Vùng Trung Tây nước Mỹ có đất đai màu mỡ nhất thế giới.
Lượng mưa vừa đủ cho hầu hết các vùng của đất nước; nước sông và nước
ngầm cho phép tưới rộng khắp cho những nơi còn thiếu.
Các khoản vốn đầu tư lớn và việc tăng cường sử
dụng lao động có trình độ cao cũng góp phần vào thành công của ngành
nông nghiệp Mỹ. Ngày nay, không có gì lạ khi nhìn thấy những người nông
dân lái máy kéo với các ca bin lắp điều hòa nhiệt độ, gắn kèm theo những
máy cày, máy xới và máy gặt có tốc độ nhanh và rất đắt tiền. Công nghệ
sinh học đưa đến việc phát triển những loại giống chống được bệnh và
chịu hạn. Phân hóa học và thuốc trừ sâu được sử dụng phổ biến (theo các
nhà môi trường thì đã quá phổ biến). Máy tính đi theo hoạt động của
trang trại, và thậm chí công nghệ vũ trụ được sử dụng để tìm ra những
nơi tốt nhất cho gieo trồng và thâm canh mùa màng. Hơn thế nữa, theo
định kỳ các nhà nghiên cứu lại giới thiệu các sản phẩm thực phẩm mới và
những phương pháp mới để phục vụ nuôi trồng, chẳng hạn như các hồ nhân
tạo để nuôi cá.
Tuy vậy,
người nông dân vẫn chưa loại bỏ được một số qui luật cơ bản của tự
nhiên. Họ vẫn còn phải chiến đấu với những thế lực nằm ngoài sự kiểm
soát của mình - đáng chú ý nhất là thời tiết. Mặc dù khí hậu vùng Bắc Mỹ
nhìn chung là ôn hòa nhưng đôi khi vẫn có lũ lụt và hạn hán. Những thay
đổi về thời tiết làm cho nông nghiệp có chu kỳ kinh tế riêng của mình,
và thường không liên quan đến nền kinh tế nói chung.
Những lời kêu gọi chính phủ trợ giúp xuất hiện khi
có những yếu tố chống lại thành công của nông dân; đôi khi các nhân tố
khác nhau cùng ập đến đẩy các nông trại đến bên bờ phá sản thì các yêu
cầu xin giúp đỡ đặc biệt tăng mạnh. Ví dụ, trong những năm 1930, sản
xuất thừa, thời tiết xấu, và cuộc Đại khủng hoảng kết hợp xuất hiện như
một khó khăn không thể vượt qua đối với nhiều nông dân Mỹ. Chính phủ đã
khắc phục tình hình bằng những cuộc cải cách nông nghiệp có ảnh hưởng
sâu rộng - đáng chú ý nhất là hệ thống trợ giá. Sự can thiệp với quy mô
lớn chưa từng thấy này kéo dài cho đến tận cuối những năm 1990, khi Quốc
hội dỡ bỏ nhiều chương trình hỗ trợ.
Vào cuối những năm 1990, nền kinh tế nông nghiệp
của Mỹ vẫn tiếp tục chu kỳ lên xuống riêng của mình, tăng mạnh vào năm
1996 và 1997, sau đó lại bước sang giai đoạn đình trệ trong hai năm tiếp
theo. Nhưng đó là một nền kinh tế trang trại khác hẳn so với nền kinh
tế đã từng tồn tại vào đầu thế kỷ này.
Chính sách nông nghiệp ban đầu
Trong thời kỳ thuộc địa của lịch sử nước Mỹ, Vương
quốc Anh chia đất đai thành những khoanh lớn để ban cho các công ty tư
nhân hoặc cá nhân. Những người được ban đất lại tiếp tục chia đất đai ra
và bán nó cho những người khác. Khi giành được độc lập từ tay nước Anh
vào năm 1783, những người sáng lập nước Mỹ thấy cần phải xây dựng một hệ
thống phân phối đất đai mới. Họ thống nhất rằng tất cả đất đai chưa có
người sở hữu sẽ thuộc quyền của chính phủ liên bang, lúc đó chính phủ có
thể bán nó với giá 2,50 USD một a (6,25 USD một hecta).
Nhiều người bất chấp nguy hiểm và khó khăn để định
cư trên những mảnh đất mới, đó là những người nghèo, và họ thường định
cư như “những người lấn chiếm đất công” mà không có giấy tờ rõ ràng về
mảnh đất của mình. Qua thế kỷ đầu tiên, nhiều người Mỹ cho rằng đất đai
nên được trao không mất tiền cho những người định cư nếu họ vẫn sống và
làm việc trên đó. Điều này cuối cùng được thực hiện thông qua Đạo luật
về đất đai năm 1862, đạo luật đã mở ra những vùng đất đai rộng lớn miền
Tây cho việc định cư dễ dàng. Một luật nữa cũng được thông qua cùng năm
đó, giành riêng một phần đất đai liên bang để tạo ra thu nhập dùng vào
việc xây dựng các trường đại học, còn gọi là các trường đại học được ban
đất, ở các bang khác nhau. Việc cấp vốn cho các trường đại học thông
qua Đạo luật Morrill tạo ra những cơ hội mới về giáo dục và đào tạo
trong các lĩnh vực kỹ thuật thực hành, bao gồm cả kỹ thuật canh tác.
Mở rộng sở hữu tư nhân với các trang trại quy mô
vừa phải chưa bao giờ là tiêu chuẩn ở miền Nam như đối với phần còn lại
của Hoa Kỳ. Trước cuộc Nội chiến (1861-1865), những đồn điền lớn với
diện tích hàng trăm hecta, nếu không muốn nói là hàng nghìn hecta, được
thiết lập để sản xuất thuốc lá, gạo và bông với quy mô lớn. Các trang
trại này được kiểm soát chặt chẽ bởi một số ít gia đình giàu có. Hầu hết
người lao động ở trang trại là nô lệ. Với việc xóa bỏ chế độ nô lệ sau
Nội chiến, nhiều nô lệ trước đây ở lại trên vùng đất đó như các nông dân
làm thuê (còn gọi là người cấy rẽ) theo các thỏa thuận với những chủ cũ
của họ.
Việc cung cấp rất
nhiều lương thực thực phẩm cho công nhân trong nhà máy, công xưởng và
các cửa hàng là yếu tố thiết yếu cho tiến trình công nghiệp hóa ban đầu
của nước Mỹ. Hệ thống đường thủy và đường bộ phát triển đã mở ra khả
năng vận chuyển nông phẩm trên các tuyến đường dài. Các sáng kiến mới
như máy cày rẽ bằng thép (cần thiết cho các vùng đất cứng ở miền Trung
Tây), máy gặt (một loại máy thu hoạch lúa hạt) và máy liên hoàn (một
loại máy cắt, đập và quạt lúa) đã cho phép các trang trại nâng cao năng
suất. Nhiều công nhân trong các nhà máy và công xưởng của quốc gia là
những người con của các gia đình nông dân mà lao động của họ không còn
cần thiết cho nông trại nhờ thành quả của những sáng kiến đó. Vào năm
1860, hai triệu nông trại của quốc gia đã sản xuất dư thừa hàng hoá.
Trên thực tế, các sản phẩm nông nghiệp chiếm 82% hàng hóa xuất khẩu của
đất nước trong năm 1860. Với một ý nghĩa rất thực tế, ngành nông nghiệp
đã tạo ra sức mạnh cho sự phát triển kinh tế Mỹ.
Khi nền kinh tế trang trại phát triển, người nông
dân ngày càng nhận thức được rằng các chính sách của chính phủ đã tác
động đến kế sinh nhai của họ. Nhóm vận động chính trị cho nông dân đầu
tiên, Nghiệp đoàn nông dân, được thành lập vào năm 1867. Nó phát triển
rất nhanh chóng, và tiếp theo là các nhóm tương tự - như Liên minh nông
dân và Đảng dân tuý. Các nhóm này nhằm mục tiêu vào các ngành đường sắt,
thương nhân và ngân hàng - họ nhằm vào đường sắt vì cước vận chuyển
cao, nhằm vào thương nhân vì những gì người nông dân cho là những khoản
lợi nhuận vô lương tâm bị lấy đi bởi “những người môi giới”, và nhằm vào
ngân hàng vì những hoạt động tín dụng quá chặt chẽ. Sự khích động chính
trị của nông dân cũng đem lại một số kết quả. Đường sắt và máy băng
chuyền vận chuyển lúa được đặt dưới sự điều tiết của chính phủ, hàng
trăm hợp tác xã và ngân hàng được hình thành. Tuy nhiên, khi những nhóm
nông dân cố gắng định hình chương trình nghị sự chính trị của quốc gia
bằng việc ủng hộ nhà hùng biện nổi tiếng thuộc Đảng Dân chủ William
Jennings Bryan trong cuộc tranh cử tổng thống vào năm 1896, thì ứng cử
viên của họ đã thất bại. Người dân thành phố và các nhóm lợi ích kinh
doanh ở miền Đông nhìn những yêu cầu của nông dân với con mắt ngờ vực,
sợ rằng các yêu cầu về vay lãi thấp và tín dụng dễ dàng có thể dẫn đến
lạm phát tai hại.
Chính
sách nông nghiệp trong thế kỷ XX
Bất chấp những thành tích chính trị không có gì nổi
bật của các nhóm nông dân cuối thế kỷ XIX, hai thập kỷ đầu tiên của thế
kỷ XX đã trở thành thời kỳ vàng son của ngành nông nghiệp Mỹ. Giá nông
phẩm rất cao khi cầu về hàng hóa gia tăng và giá trị của đất đai tăng.
Những tiến bộ kỹ thuật tiếp tục nâng cao năng suất. Bộ Nông nghiệp Hoa
Kỳ đã thành lập các trang trại thử nghiệm nhằm trưng bày các kỹ thuật
mới có thể nâng cao sản lượng mùa màng; năm 1914, Quốc hội lập ra cơ
quan Dịch vụ phát triển nông nghiệp, cơ quan này tuyển mộ một đội ngũ
cán bộ để cố vấn cho nông dân và gia đình họ mọi việc, từ phân bón cho
đến các dự án sửa chữa cải tạo của gia đình. Bộ Nông nghiệp đảm nhiệm
tiến hành các nghiên cứu mới, phát triển những giống lợn tăng trọng
nhanh hơn và đỡ tốn thức ăn hơn, những loại phân bón làm tăng sản lượng
hạt, các loại giống lai cho cây trồng khoẻ hơn, các phương pháp chữa trị
nhằm bảo vệ và cứu chữa cây trồng vật nuôi chống được bệnh tật, và
nhiều phương pháp khác kiểm soát các loài vật gây hại.
Những năm tốt đẹp đầu thế kỷ XX chấm dứt khi giá
cả giảm xuống sau Chiến tranh thế giới thứ nhất. Nông dân lại kêu gọi sự
giúp đỡ của chính phủ liên bang. Mặc dù vậy, những lời yêu cầu của họ
đã bị bỏ ngoài tai khi mà phần còn lại của quốc gia - đặc biệt là những
vùng đô thị - đang tận hưởng cuộc sống thịnh vượng của những năm 1920.
Giai đoạn này, người nông dân gặp nhiều thảm họa hơn cả những thời kỳ
khó khăn trước đây bởi vì họ không còn tự cung tự cấp nữa. Họ phải thanh
toán bằng tiền mặt cho máy móc, hạt giống và phân bón cũng như cho hàng
hóa tiêu dùng, trong khi thu nhập của họ tụt xuống cực kỳ thấp.
Tuy nhiên, không lâu sau cả quốc gia đã chia sẻ
nỗi khó khăn của nông dân khi đất nước rơi vào khủng hoảng kinh tế sau
sự đổ vỡ của thị trường chứng khoán năm 1929. Đối với nông dân, cuộc
khủng hoảng kinh tế còn trộn thêm cả những khó khăn nảy sinh do sản xuất
thừa. Sau đó, khu vực nông nghiệp còn gặp phải những điều kiện thời
tiết bất lợi cho hoạt động canh tác. Những đợt gió dai dẳng trong suốt
mùa khô hạn kéo dài đã thổi mất đi những lớp đất mầu mỡ trên bề mặt của
một vùng rộng lớn đã từng cho năng suất cao. Khái niệm “bão bụi” được
đặt ra để mô tả những điều kiện xấu ấy.
Sự can thiệp của chính phủ được mở rộng trong nền
kinh tế nông nghiệp bắt đầu vào năm 1929, khi Tổng thống Herbert Hoover
(1929-1933) thành lập Ban nông nghiệp liên bang. Mặc dù ban này không
thể đáp ứng những thách thức gia tăng do cuộc Đại khủng hoảng mang lại,
nhưng việc thiết lập tổ chức này thể hiện cam kết quốc gia đầu tiên nhằm
bảo đảm sự ổn định kinh tế nhiều hơn nữa cho nông dân và đặt ra một
tiền lệ về sự điều tiết các thị trường nông sản của chính phủ.
Trong buổi lễ nhậm chức tổng thống của mình vào
năm 1933, Tổng thống Franklin D. Roosevelt đã tuyên bố chuyển đổi chính
sách nông nghiệp quốc gia mạnh mẽ hơn so với sáng kiến của Hoover.
Roosevelt đã đề xuất, và Quốc hội đã tán thành, các luật nhằm nâng cao
giá cả nông sản bằng việc hạn chế sản xuất. Chính phủ cũng chấp nhận và
thực hiện một hệ thống trợ giá để bảo đảm cho nông dân một mức giá
“tương đương” gần bằng mức giá có thể có được trong thời kỳ thị trường
thuận lợi. Trong những năm sản xuất thừa, khi giá cả nông sản thấp hơn
mức giá tương đương, chính phủ chấp nhận mua lượng thừa đó.
Có những sáng kiến nữa của Chính sách mới để hỗ
trợ nông dân. Quốc hội thành lập Ban quản lý điện khí hóa nông thôn nhằm
mở rộng các tuyến truyền tải điện đến các vùng nông thôn. Chính phủ
giúp đỡ xây dựng và duy tu hệ thống các đường giao thông từ trang trại
đến thị trường để người nông dân cũng như hàng hóa của họ có thể tới
được các thành phố và đô thị thuận lợi hơn. Những chương trình bảo toàn
đất đai nhấn mạnh đến sự cần thiết phải quản lý hiệu quả đất canh tác.
Đến cuối Chiến tranh thế giới thứ hai, nền kinh tế
trang trại một lần nữa lại phải đối diện với những thách thức của sản
xuất thừa. Các tiến bộ công nghệ, chẳng hạn như việc đưa vào các máy móc
chạy điện và xăng dầu cũng như việc sử dụng rộng rãi thuốc trừ sâu và
phân hóa học, làm cho sản lượng trên mỗi hecta cao hơn bao giờ hết. Để
giúp tiêu thụ các nông sản thừa gây sức ép lên giá cả và gây tổn thất
tiền bạc của người đóng thuế, năm 1954 Quốc hội đã tạo nên một chương
trình Lương thực vì hòa bình để xuất khẩu hàng hóa nông sản của Mỹ sang
các nước có nhu cầu. Các nhà hoạch định chính sách lập luận rằng việc
xuất khẩu lương thực như vậy có thể sẽ đẩy mạnh sự tăng trưởng kinh tế
của các nước đang phát triển. Những người theo chủ nghĩa nhân đạo coi
chương trình này như là một cách để nước Mỹ chia sẻ sự dư dật của mình.
Trong những năm 1960, chính phủ quyết định cũng sử
dụng lương thực thừa để nuôi chính những người nghèo của mình. Trong
Cuộc chiến chống đói nghèo của Tổng thống Lyndon Johnson, chính phủ đưa
ra chương trình Tem phiếu thực phẩm cấp cho những người có thu nhập thấp
các phiếu phân phối có thể dùng để thanh toán lương thực thực phẩm tại
các cửa hàng tạp phẩm. Tiếp theo là các chương trình khác sử dụng hàng
hóa nông sản thừa, chẳng hạn như các bữa ăn tại trường cho trẻ em có nhu
cầu. Các chương trình lương thực như vậy đã giúp duy trì sự giúp đỡ của
thành phố cho khu vực nông nghiệp trong nhiều năm, và những chương
trình này vẫn là một dạng quan trọng của phúc lợi công cộng - giành cho
người nghèo và theo một nghĩa nào đó cũng cho cả người nông dân.
Nhưng khi sản xuất nông trại ngày càng tăng lên
suốt trong những năm 1950, 1960 và 1970 thì chi phí của hệ thống trợ giá
của chính phủ cũng tăng lên hết sức mạnh mẽ. Các nhà chính trị ở những
bang không có sản xuất nông nghiệp đã đặt ra câu hỏi về tính khôn ngoan
trong việc khuyến khích nông dân sản xuất nhiều hơn nữa khi đã đủ - đặc
biệt là khi lượng dư thừa gây sức ép lên giá cả và do vậy lại yêu cầu sự
giúp đỡ của chính phủ lớn hơn.
Chính phủ đã thử một sách lược mới. Năm 1973, nông
dân Mỹ bắt đầu nhận được sự giúp đỡ dưới dạng những khoản tiền thanh
toán “thiếu hụt” của liên bang, được thiết kế để vận hành giống như hệ
thống giá tương đương. Để nhận được những khoản thanh toán này, người
nông dân phải tách ra một số ruộng đất của mình không được sản xuất, do
vậy sẽ giúp giữ giá thị trường. Một chương trình mới Thanh toán bằng
hiện vật, được tiến hành vào đầu những năm 1980 với mục đích giảm chi
phí tích trữ lúa, gạo và bông của chính phủ và nâng cao giá cả thị
trường, đã bỏ không canh tác khoảng 25% đất trồng trọt.
Việc trợ giá và thanh toán thiếu hụt chỉ áp dụng
cho những hàng hóa cơ bản nhất định như lúa, gạo và bông. Nhiều người
sản xuất khác không được trợ cấp. Một vài nông sản, chẳng hạn như chanh
và cam, bị lệ thuộc vào những hạn chế thị trường công khai. Dưới cái gọi
là những đơn đặt hàng thị trường, lượng nông sản của cây trồng là mặt
hàng tươi bị giới hạn theo từng tuần. Bằng việc khống chế lượng bán ra,
những đơn đặt hàng như vậy nhằm mục đích nâng giá cho nông dân.
Trong các thập kỷ 1980 và 1990
Vào thập kỷ 1980, chi phí của chính phủ (và cũng
là của người đóng thuế) cho những chương trình như vậy đôi khi vượt quá
20 tỷ USD mỗi năm. Bên ngoài các khu vực nông trại, nhiều cử tri phàn
nàn và biểu lộ bất bình về việc chính phủ liên bang thực tế thanh toán
cho nông dân chứ KHÔNG cho nông trại. Quốc hội nhận thấy cần phải thay
đổi đường lối.
Năm 1985,
theo yêu cầu của Tổng thống Ronald Reagan về một chính phủ có quy mô hẹp
hơn, Quốc hội đã thông qua một luật mới về nông trại nhằm mục đích giảm
bớt sự phụ thuộc của nông dân vào hỗ trợ của chính phủ và nâng cao khả
năng cạnh tranh quốc tế đối với hàng hóa nông sản Mỹ. Luật này cắt giảm
trợ giá và không canh tác từ 16 đến 18 triệu hecta đất trồng nhạy cảm
với môi trường trong vòng từ 10 đến 15 năm. Mặc dù luật năm 1985 chỉ tác
động vừa phải đến cơ cấu trợ giúp nông trại của chính phủ nhưng việc
cải thiện các chu kỳ kinh tế đã giúp kiềm chế tổng số tiền trợ cấp.
Tuy nhiên, khi thâm hụt ngân sách liên bang tăng
cao suốt cuối thập kỷ 1980, Quốc hội phải tìm mọi cách cắt bớt chi tiêu
liên bang. Năm 1990, Quốc hội thông qua luật khuyến khích nông dân gieo
trồng những nông sản mà trước đây họ thường không được nhận các khoản
thanh toán thiếu hụt, và giảm bớt diện tích đất trồng những loại nông
sản mà người nông dân đã có thể được hưởng thanh toán thiếu hụt. Luật
mới này duy trì trợ cấp giá cố định và cao cho những hàng hóa nhất định,
và tiếp tục đẩy mạnh quản lý nhà nước đối với một số thị trường hàng
hóa nông sản.
Điều này đã
thay đổi mạnh mẽ vào năm 1996. Một Quốc hội mới với đa số thuộc phái
Cộng hoà, được bầu ra vào năm 1994, tìm cách làm cho nông dân từ bỏ dựa
dẫm vào sự giúp đỡ của chính phủ. Đạo luật về quyền tự quyết đối với
nông trại đã dỡ bỏ các chương trình trợ giúp về thu nhập và giá cả tốn
kém nhất, đồng thời trao cho nông dân quyền tự chủ sản xuất đáp ứng thị
trường toàn cầu mà không hạn chế họ cấy trồng bao nhiêu nông sản. Với
luật này, người nông dân nhận được khoản trợ cấp cố định không quan hệ
tới giá cả thị trường. Luật này cũng quyết định bãi bỏ việc thực hiện
trợ giá bơ sữa.
Những thay
đổi này xóa bỏ cơ bản các chính sách từ thời kỳ Chính sách mới nên nó đi
vào cuộc sống không phải dễ dàng. Quốc hội tìm cách làm dịu bớt căng
thẳng của quá trình chuyển đổi này bằng việc cung cấp cho nông dân 36 tỷ
USD thanh toán trong 7 năm mặc dù giá nông sản ở thời điểm này đang ở
mức cao. Việc trợ giá cho lạc và đường vẫn được giữ nguyên, và những trợ
giá cho đỗ tương, bông và gạo thực tế còn tăng lên. Các đơn đặt hàng
của thị trường về cam và một số nông sản khác rất ít thay đổi. Ngay cả
khi có những nhượng bộ chính trị như vậy đối với nông dân thì câu hỏi
vẫn được đặt ra là liệu có thể kéo dài hệ thống ít bị kiểm soát hơn này
được không. Với luật mới, sự giúp đỡ của chính phủ sẽ quay trở lại hệ
thống cũ vào năm 2002 trừ phi Quốc hội hành động để giữ giá thị trường
và các khoản thanh toán trợ giúp được tách ra.
Những đám mây đen mới xuất hiện vào năm 1998 khi
cầu về hàng hóa nông sản Mỹ sụt giảm ở những vùng châu Á đang bị khốn
quẫn tài chính nghiêm trọng; xuất khẩu nông sản giảm mạnh, và giá nông
sản, gia súc bị dìm xuống. Người nông dân tiếp tục cố gắng nâng cao thu
nhập của mình bằng cách sản xuất nhiều hơn, dù cho giá cả có thấp đi.
Năm 1998 và năm 1999, Quốc hội đã thông qua một loạt luật bảo lãnh nhằm
tạm thời gia tăng tài trợ cho nông trại mà đạo luật năm 1996 đã bãi bỏ.
Khoản tài trợ 22.500 triệu USD năm 1999 thực sự lập ra một kỷ lục mới.
Các chính sách nông nghiệp và thương mại
thế giới
Sự phụ
thuộc lẫn nhau ngày càng gia tăng của các thị trường thế giới đã nhắc
nhở các nhà lãnh đạo trên thế giới phải có cách tiếp cận mang tính hệ
thống hơn để điều tiết việc buôn bán hàng hóa nông nghiệp giữa các quốc
gia trong thập kỷ 1980 và thập kỷ 1990.
Hầu hết mỗi quốc gia sản xuất nông nghiệp đều có
một số hình thức trợ giúp của chính phủ đối với nông dân. Vào cuối thập
kỷ 1970 và đầu thập kỷ 1980, khi các điều kiện thị trường nông nghiệp
trở nên thay đổi nhanh chóng, phần lớn các quốc gia có khu vực nông
nghiệp chiếm tỷ trọng đáng kể đã tổ chức các chương trình hoặc đẩy mạnh
các chương trình đang có để hỗ trợ nông dân của mình tránh khỏi những gì
được xem là tình trạng tranh mua tranh bán của nước ngoài. Những chính
sách này làm thu hẹp các thị trường quốc tế về hàng hóa nông nghiệp, làm
giảm giá cả hàng hóa quốc tế và gia tăng dư thừa hàng hóa nông nghiệp
trong các nước xuất khẩu.
Theo
một nghĩa hẹp, có thể hiểu được tại sao một nước cố gắng giải quyết vấn
đề sản xuất thừa hàng nông nghiệp bằng việc tìm cách xuất khẩu lượng
thừa đó một cách tự do trong khi lại hạn chế nhập khẩu. Tuy nhiên, trên
thực tế một chiến lược như vậy là không khả thi; các nước khác cũng miễn
cưỡng một cách dễ hiểu trong việc cho phép nhập khẩu từ những nước
không mở cửa thị trường của mình.
Vào giữa thập kỷ 1980, các chính phủ tiến hành giảm
trợ cấp và cho phép buôn bán tự do hơn đối với hàng hóa nông sản. Tháng
Bảy 1986, Hoa Kỳ công bố một kế hoạch mới nhằm cải cách buôn bán hàng
hóa nông nghiệp quốc tế như là một phần của Vòng đàm phán thương mại đa
phương Urugoay. Hoa Kỳ đã yêu cầu hơn 90 nước thành viên tổ chức thương
mại quốc tế hàng đầu thế giới, lúc đó là Hiệp định chung về thuế quan và
thương mại (GATT), thương lượng để xóa bỏ từng bước tất cả những tài
trợ cho nông nghiệp và các chính sách khác bóp méo giá cả nông sản, sản
xuất và buôn bán. Hoa Kỳ đặc biệt muốn có một cam kết xóa bỏ tận cùng
các tài trợ cho nông trại châu Âu và chấm dứt chính sách cấm nhập khẩu
gạo của Nhật Bản.
Các nước
hoặc các nhóm nước khác đều đưa ra những đề nghị riêng khác nhau của
mình, nhưng hầu hết đều thống nhất với ý tưởng xóa bỏ tài trợ làm bóp
méo thương mại và hướng về những thị trường tự do hơn. Nhưng với các cố
gắng ban đầu nhằm có được những hiệp định quốc tế về việc cắt giảm tài
trợ cho nông nghiệp, đã chứng tỏ rất khó có thể đạt được bất kỳ một sự
nhất trí nào. Tuy nhiên, lãnh đạo các nước công nghiệp hàng đầu phương
Tây đã cam kết với nhau để đạt được cắt giảm tài trợ và những mục tiêu
về thị trường tự do hơn vào năm 1991. Vòng đàm phán Urugoay đã kết thúc
vào năm 1995, với sự cam kết của các bên tham gia về hạn chế tài trợ cho
nông nghiệp và xuất khẩu đồng thời tạo ra một số thay đổi khác nhằm
hướng về buôn bán tự do hơn (chẳng hạn như chuyển đổi quota nhập khẩu
thành các loại thuế quan dễ cắt giảm hơn). Họ cũng xem xét lại vấn đề
này trong vòng đàm phán mới (tại Hội nghị bộ trưởng của Tổ chức thương
mại thế giới ở Seattle vào cuối năm 1999). Trong khi các cuộc đàm phán
này được tổ chức nhằm mục đích xóa bỏ hoàn toàn tài trợ cho xuất khẩu
thì các phái đoàn lại không đồng ý tiếp tục đi quá xa như vậy. Trong khi
đó, Cộng đồng châu Âu chuyển sang cắt giảm tài trợ xuất khẩu và tình
trạng căng thẳng thương mại đã giảm xuống vào cuối thập kỷ 1990.
Tuy nhiên, các cuộc tranh cãi về buôn bán nông sản
vẫn tiếp tục. Theo quan điểm của Mỹ thì Cộng đồng châu Âu đã thất bại
trong việc theo đuổi đến cùng cam kết giảm tài trợ cho nông nghiệp. Hoa
Kỳ đã giành được các phán quyết có lợi của Tổ chức thương mại thế giới,
là tổ chức kế tục GATT từ năm 1995, trong một vài kiện cáo về việc tiếp
tục tài trợ của Cộng đồng châu Âu, nhưng các nước châu Âu đã không chấp
nhận điều đó. Cùng lúc đó, các nước châu Âu gia tăng các rào cản đối với
thực phẩm Mỹ được sản xuất với các hoóc môn nhân tạo hoặc biến đổi gien
- đây là một thách thức nghiêm trọng đối với lĩnh vực nông nghiệp Mỹ.
Vào đầu năm 1999, Phó Tổng thống Mỹ Al Gore lại
kêu gọi cắt giảm mạnh tài trợ nông nghiệp và biểu thuế quan trên toàn
cầu. Nhật Bản và các nước châu Âu gần như từ chối các đề nghị này như họ
đã từng bày tỏ trong Vòng đàm phán Urugoay. Trong khi đó, các nỗ lực
hướng về thương mại nông nghiệp thế giới tự do hơn lại gặp thêm trở ngại
do xuất khẩu giảm sút vào cuối thập kỷ 1990.
Nông nghiệp: Một ngành kinh doanh lớn
Nông dân Mỹ bước vào thế kỷ XXI với một số vấn đề
giống như họ đã từng chạm trán trong suốt thế kỷ XX. Vấn đề quan trọng
nhất trong số đó vẫn là sản xuất thừa. Một sự thật từ khi lập quốc là
việc tiếp tục cải tiến máy nông nghiệp, hạt giống tốt hơn, phân bón tốt
hơn, tưới tiêu tốt hơn và kiểm soát sâu bệnh hiệu quả làm cho nông dân
ngày càng có nhiều thành công hơn trong những gì họ làm (trừ việc tạo ra
lợi nhuận). Và trong khi người nông dân nhìn chung đều muốn giảm bớt
sản lượng nông sản để chống đỡ lại giá cả thì họ lại do dự trong việc
thu hẹp sản xuất của chính mình.
Cũng giống như một doanh nghiệp công nghiệp tìm
cách nâng cao lợi nhuận bằng việc tạo ra quy mô lớn hơn và hiệu quả hơn,
nhiều nông trại Mỹ cũng ngày càng có quy mô lớn hơn và củng cố hoạt
động của mình sao cho linh hoạt hơn. Sự thật, ngành nông nghiệp Mỹ đã
phát triển thành một ngành “kinh doanh nông nghiệp”, một khái niệm được
đặt ra để phản ánh bản chất tập đoàn lớn của nhiều doanh nghiệp nông
nghiệp trong nền kinh tế Mỹ hiện đại. Kinh doanh nông nghiệp bao gồm rất
nhiều doanh nghiệp nông nghiệp và các cơ cấu trang trại đa dạng, từ các
doanh nghiệp nhỏ một hộ gia đình cho đến các tổ hợp rất lớn hoặc các
công ty đa quốc gia sở hữu những vùng đất đai lớn hoặc sản xuất hàng hóa
và nguyên vật liệu cho nông dân sử dụng.
Sự ra đời ngành kinh doanh nông nghiệp vào cuối thế
kỷ XX đã tạo ra ít trang trại hơn nhưng các trang trại có quy mô lớn
hơn nhiều. Đôi khi được sở hữu bởi những cổ đông vắng mặt, các trang
trại mang tính tập đoàn này sử dụng nhiều máy móc hơn và ít bàn tay của
nông dân hơn. Vào năm 1940, có 6 triệu trang trại và trung bình mỗi
trang trại khoảng 67 hecta. Đến cuối thập kỷ 1990, chỉ có khoảng 2,2
triệu trang trại nhưng trung bình mỗi trang trại có diện tích 190 hecta.
Cũng chính trong khoảng giai đoạn này, số lao động nông nghiệp giảm rất
mạnh - từ 12,5 triệu người năm 1930 xuống còn 1,2 triệu người vào cuối
thập kỷ 1990 - dù cho dân số của Mỹ tăng hơn gấp đôi. Vào năm 1900, một
nửa lực lượng lao động là nông dân nhưng đến cuối thế kỷ này chỉ còn 2%
lao động trong các trang trại. Và gần 60% trong số nông dân còn lại đó
đến cuối thế kỷ này chỉ làm việc một phần thời gian trên trang trại;
thời gian còn lại họ làm những việc khác không thuộc trang trại để bù
đắp thêm thu nhập cho mình. Chi phí đầu tư vốn cao - cho đất đai và
trang thiết bị - khiến cho việc dành toàn bộ thời gian làm việc trên
trang trại là cực kỳ khó khăn cho hầu hết mọi người.
Như những số liệu trên đã cho thấy, “trang trại gia đình” Mỹ - một khái niệm ăn sâu trong lịch sử dân tộc và được ca tụng trong huyền thoại về người tiểu chủ hùng mạnh - đang phải đối mặt với những thách thức kinh tế lớn lao. Người Mỹ ở vùng đô thị hay ven đô tiếp tục biểu lộ lòng ngưỡng mộ về những ngôi nhà thô sơ ngăn nắp và những cánh đồng được canh tác của phong cảnh miền quê truyền thống, nhưng vẫn còn chưa chắc chắn là liệu họ có sẵn sàng trả giá - hoặc là giá cả thực phẩm cao hơn hoặc tiền tài trợ của chính phủ cho nông dân - để duy trì hình tượng trang trại gia đình đó.
Nội dung
-
Bản cập nhật năm 2009 (PDF-8.6MB)
- Chương 1: Tính liên tục và thay đổi
- Chương 2: Nền kinh tế Mỹ vận hành như thế nào
- Chương 3: Tóm lược lịch sử nền kinh tế Mỹ
- Chương 4: Doanh nghiệp nhỏ và tập đoàn
- Chương 5: Chứng khoán, hàng hóa và thị trường
- Chương 6: Vai trò của chính phủ trong nền kinh tế
- Chương 7: Chính sách tiền tệ và chính sách tài khoá
- Chương 8: Ngành nông nghiệp Mỹ: Tầm quan trọng đang thay đổi
- Chương 9: Lao động ở Mỹ: Vai trò của người lao động
- Chương 10: Các chính sách ngoại thương và kinh tế toàn cầu
- Chương 11: Lời kết: Phía sau kinh tế học
- Chương 12: Chú giải các thuật ngữ kinh tế